2 bài văn nghị luận xã hội về văn hóa dân tộc

doc6 trang | Chia sẻ: haohao | Lượt xem: 1666 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu 2 bài văn nghị luận xã hội về văn hóa dân tộc, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
2 BÀI VĂN NGHỊ LUẬN XÃ HỘI VỀ VĂN HÓA DÂN TỘC

NST xin giới thiệu 2 bài văn nghị luận hay về vấn đề văn hóa dân tộc của “Lính Chì”. Đây là dạng đề “mở”, quan điểm người viết có thể chưa phải là chính thống, nhưng trình bày diễn đạt có sức thuyết phục.

ĐỀ 1: 
Trong tác phẩm nhìn về vốn văn hoá dân tộc của Trần Đình Hượu viết: “.. Con đường hình thành bản sắc dân tộc của văn hoá không chỉ trông cậy vào sự sáng tạo mà còn trong cậy vào khả năng chiếm lĩnh, sự đồng hoá những giá trị văn hoá bên mình…” 
Anh chị trình bày suy nghĩ của mình về hiện tượng tiếp nhận văn hoá ngoại lai của giới trẻ hiện nay.

Bài làm mẫu
Vượt hành trình gian nan để đổ về đại dương, dòng sông luôn khởi khởi nguồn từ đất liền, chảy qua bao vùng miền để hoà vào biển lớn. Dòng sông văn hoá Việt Nam cũng khởi nguồn từ quá khứ 4000 năm lịch sử, chảy trong thời gian qua các miền văn hoá kế thừa và sáng tạo kết tụ lại thành những giá trị văn hoá Việt Nam đậm đà bản sắc dân tộc. Nhưng "con đường hình thành bản sắc dân tộc của văn hoá không chỉ trông cậy vào sự tạo tác của chính dân tộc đó mà còn trông cậy vào khả năng chiếm lĩnh,khả năng đồng hoá các giá trị văn hoá bên ngoài"- quan điểm đó của Trần Đình Hượu đã đặt ra trong lòng độc giả những trăn trở, đặc biệt trong hiện tượng tiếp nhận văn hoá ngoại lai của giới trẻ hiện nay. 
 
Văn hoá Việt Nam hình thành sớm, xuất hiện từ những ngày công xã nguyên thuỷ, phát triển qua nền văn minh lúa nước, hình thành những loại hình văn hoá dân gian từ sự chạm khắc của miền truyền thuyết ,ca dao, cổ tích với những tập tục ăn trầu, búi tóc từ thủa cổ xưa. 
"Khi ta lớn lên đất nước đã có rồi 
Đất nước có trong cái ngày xửa ngày xưa mẹ thường hay kể 
Đất nước bắt đầu với miếng trầu bây giờ bà ăn 
Đất nước lớn lên khi dân mình biết trồng tre mà đánh giặc 
Tóc mẹ thì bới sau đầu...."
  ( Trich Đât nước – Nguyễn Khoa Điềm )
Và cùng với sự ra đời của nhà nước quân chủ chuyên chế, xã hội phong kiến đã mang đến cho nền văn hoá Việt nam những dấu ấn đặc sắc mang đậm tính chất Á Đông. Người Việt Nam có quyền tự hào về vốn văn hoá đậm đà thuần Việt cả trong những lĩnh vực Văn học, nghệ thuật, kiến trúc, hội hoạ , điêu khắc...Với nền văn học dân gian phong phú thể loại (truyền thuyết, cổ tích, ngụ ngôn, truyện cười, thơ nôm, sử thi....) mà đỉnh cao là thể thơ lục bát, vẫn được sử dụng đến ngày nay. Kiến trúc Việt Nam với những mái đình cổ kính, thấp thoáng ẩn hiện dưới những gốc đa, sau những rặng tre xanh, bến nước, sân đình...Các làn điệu dân ca như ca trù, quan họ, cải lương.... hay những nghệ thuật hội hoạ dân gian Đông Hồ....có thể coi là những thành quả đã có làm cơ sở xây dựng một nền văn hoá phong phú đa dạng đậm đà bản sắc dân tộc VN. 
Nhưng "con đường hình thành bản sắc dân tộc đâu chỉ trông cậy vào khả năng tạo tác " tức là sáng tác, kế thừa và phát huy những gì đã có mà còn phải " trông cậy vào khả năng chiếm lĩnh, sự đồng hoá những giá trị văn hoá bên ngoài". Phải chăng, hành trình phát triển văn hoá từ sông ra biển chính là sự đồng hành của quá trình giao lưu và tiếp biến văn hoá- cũng chính là khả năng đồng biến và chiếm lĩnh những giá trị văn hoá bên ngoài? Khả năng chiếm lĩnh và đồng hoá phải chăng là khả năng tiếp thu hội nhập nhiều nền văn hoá, khả năng đón nhận những ảnh hưởng của nền văn minh văn hoá lớn, khả năng tiếp thu chủ động, biến những cái ngoại lai thành cái của mình và có sàng lọc. Do bối cảnh của lịch sử với bao thăng trầm, trwocs những dòng chủ lưu về văn hoá ồ ạt theo con đường cai trị của phong kiến thực dân xâm nhập vào văn hoá Việt Nam một cách có hệ thống thì việc "chiếm lĩnh" và" đồng hoá" để ko bị chiếm lĩnh và đồng hoá lại là vô cùng cần thiết, nó quyết định tới sự tồn tại riêng rẽ của một nền Văn hoá Việt ko thể hoà lẫn. "Truyện Kiều" của Nguyễn Du cũng là một cách tiếp thu có chọn lọc những giá trị của văn học Trung Hoa từ "Kim Vân Kiều truyện" của Thanh Tâm Tài Nhân để trở thành đỉnh cao của văn học dân tộc, sự chuyển thể từ thể loại truyện sang truyện thơ ( Nôm) là một sự đồng hóa hết sức sáng tạo và tích cực của đại thi hào Nguyễn Du. Các thể thơ nôm đường luật cũng là hệ quả của quá trình tiếp thu và lĩnh hội có chọn lọc như thế. Kiến truc văn hoá đình chùa ảnh hưởng từ Phật giáo từ Trung Quốc hay Ấn Độ nhưng vẫn mang dáng vẻ kiến trúc Việt Nam cũng là một tminh chứng diệu kì cho khả năng" chiếm lĩnh" và" đồng hoá" những giá trị Văn hoá bên ngoài. 
Cùng với sự đổi thay của lịch sử, bước sang kỉ nguyên hội nhập với bao thay đổi của nền kinh tế thị trường, trước ngưỡng cửa của sự xâm nhập văn hoá với quy mô toàn cầu thì nhận định của Giáo sư Trần Đình Hượu đặt ra bao suy tư cho giới trẻ về trách nhiệm của bản thân trong thời đại mới. Trước dòng chảy xâm nhập ào ạt của nền văn hoá ngoại lai từ các nền văn minh trên thế giới, một bộ phận thanh niên Việt Nam đã biết nắm bắt lấy thời cơ, phát triển nền văn hoá dân tộc vốn đã giàu đẹp ngày càng văn minh và tiến bộ hơn, Sự tiếp thu có hệ thống các hệ tư tưởng văn hoá tây phương với những phong cách nghệ thuật thơ văn của Pháp, Italia, Anh, hay Đức, các công trình kiến trúc đậm dấu ấn cổ điển hay hiện đại của những quốc gia này cũng được tiếp thu và thiết kế bài bản. Chính sự năng động và sáng tạo đó đã góp phần làm văn minh hơn, giàu có hơn cho bản sắc văn hoá Việt Nam, tạo nên sự phối trộn hài hoà giữa cũ và mới, cổ điển và hiện đại, truyền thống và cách tân. Sự giao lưu và tiếp biến được coi là "nguồn gen tiến hoá" cho sự phát triển của văn hoá dân tộc trong giai đoạn giao lưu và hội nhập. Nền văn hoá Internet, văn hoá Online, văn hoá Game, hay sự thay đổi của trào trào lưu thời trang trên thế giới góp phần lột xác hình ảnh đất nước Việt Nam vốn vẫn được biết đến là nền văn hoá nông nghiệp với hình ảnh "con trâu đi trước cái cày theo sau". Để làm đwocj điều đó, không chỉ đòi hỏi người thanh niên Việt Nam ph ải năng động sáng tạo biết nắm bắt du nhập một cách có chọn lọc mà còn đặt ra vấn đề về sự bảo tồn những nét văn hoá truyền thống cũ, hoà nhập nhưng ko hoà tan- đó cũng là một thách thức đầy khó khăn, là những chướng ngại vật trong hành trình dòng chảy tiếp biến, hội nhập. Bởi bên cạnh những cá nhân, tập thể tích cực cũng tồn tại không ít những thanh niên sống thiếu lí tưởng, ko có MĐ rõ ràng, du nhập văn hoá một cách tràn lan máy móc, cả những nền văn hoá vốn ko mang nhiều giá trị nhân văn thẩm mĩ chỉ để thoả mãn nhu cầu sống gấp, sống sành điệu của một bộ phận giơí trẻ ngày nay. Đó là bộ phận có biểu hiện sống ngoại lai mất gốc, xa rời văn hoá truyền thống dân tộc, bị hoà tan một cách hoàn toàn trong dòng lũ hội nhập mà tự đánh mất chính mình. Một số khác lại có tư tưởng bảo thủ, không chiêm slĩnh, đồng hoá văn hoá ngoại lai, chỉ khư khư chăm chút cho cái vốn văn hoá xưa của dân tộc, không chịu du nhập, đổi mới, Bất giác, ở họ gợi lên hình ảnh về biển Chết, suốt đời chỉ khư khư khép mình, ko nhận nước từ bất kì dòng chảy nào nên chưa ở đâu sự sống của các loài sinh vật lại nghèo nàn đến thế.Có thể nói, cả 2 đối tượng trên đều có ảnh hưởng tiêu cực, là bước cản trở trên con đường xây dựng một nền văn hoá tiến tiến đậm đà bản sắc dân tộc. 
Ý thức được trách nhiệm và sứ mệnh của bản thân đòi hỏi mỗi thanh niên của thời đại mới cần có thái độ và nhận thức đúng đắn về trách nhiệm, xác định lập trường tư tưởng vững vàng, để phát huy mặt mạnh, hạn chế mặt còn thiếu sót củavăn hoá dân tộc, tích cực quảng bá văn hoá dân tộc tới bạn bè quốc tế, có thái độ tôn trọng đúng mực và chiếm lĩnh đồng hoá hiệu quả nền văn hoá ngoại lai, Điều đó là một ẩn số chỉ được giải quyết bằng bất đẳng thức hành động của mỗi con người. 
Có một câu hỏi khá phổ biến khi ta đặt chân lên xứ người" Bạn đến từ đâu". Hãy tự hào trả lời 2 tiếng" Việt Nam" và giới thiệu cho họ về đất nước hình chữ S- khi bạn đã tự tin về nền văn hoá đậm đà bản sắc của mình!
Nguồn: Lính Chì
µĐỀ 2:
Anh (chị) hãy trình bày ý kiến của mình vềviệc các nữ sinh thời nay nên mặc áo dài truyền thống hay trang phục hiện đại khi đến trường.

Bài làm mẫu
Trên đường phố ngày nay, ta thường bắt gặp những tà áo dài thướt tha, tinh khôi của những nữ sinh xen lẫn vào đó là những đồng phục trẻ trung, năng động tạo nên khung cảnh đẹp mắt trong những dịp tựu trường. Có nhiều ý kiến khác nhau là nên mặc áo dài truyền thống hay đồng phục hiện đại, chúng ta hãy cùng nhau thảo luận về vấn đề này.
Áo dài truyền thống là sắc phục của dân tộc ta, là quốc hồn , quốc túy của đất nước Việt Nam . Áo dài không chỉ đơn giản là trang phục để mặc mà còn là biểu tượng văn hóa, thể hiện bản sắc dân tộc, gắn liền với bao thăng trầm lịch sử. Trải qua nhiều biến đổi cách tân, đến ngày nay áo dài vẫn giữ được nét đẹp vốn có của nó, đi vào lòng những người con quê hương và được bạn bè năm châu biết đến. Đồng phục hiện đại là các lọai váy hay quần kết hợp với áo sơ mi trẻ trung, giúp cho các bạn học sinh cảm thấy thỏai mái nhưng cũng không kém phần lịch sự, gọn gàng.
Khác với kimono của Nhật hay hanbok của Hàn Quốc, áo dài Việt Nam vừa truyền thống lại vừa hiện đại, lọai trang phục này không giới hạn mặc ở một số nơi hay dịp mà có thể mặc mọi lúc, mọi nơi, dùng làm trang phục công sở hay đi học, đi chơi. Chiếc áo dài, đặc biệt là áo dài nữ sinh có một nét đẹp duyên dáng mà không lọai trang phục nào có dược. Áo dài làm cho nữ sinh thêm dịu dàng, thướt tha, gợi nên cảm xúc xao xuyến khó tả cho những ai tình cờ bắt gặp. 
Hình ảnh nữ sinh Việt Nam trong trang phục áo dài đã đem đến cho các nhà thơ, nhà văn nguồn cảm hứng vô tận, như trong bài “Áo lụa Hà Đông” của Nguyên Sa:
 “Nắng Sài Gòn anh đi mà chợt mát / Bởi vì em bận áo lụa Hà Đông”
Hay trong bài “Tương tư” có khổ :
“Có phải em mang trên áo bay Hai phần gió thồi, một phần mây 
Hay là em gói mây trong áo
Rồi thở cho làn áo trắng bay.”
Tà áo dài đem đến cho người phụ nữ Việt Nam nói chung và nữ sinh nói riêng một nét đẹp đăc trưng mà những người con xa quê hương luôn khắc trong tâm tưởng, luôn khát khao một lần bắt gặp, để lại cho những nữ sinh trung học một thời để nhớ,để thương. Tuy nhiên, có ý kiến cho rằng áo dài truyền thống không còn phù hợp với nữ sinh ngày nay.”Tại sao nữ sinh đi học lại phải bận áo dài ?”, đó là câu hỏi của hầu hết các bạn gái đã hoặc đang vào ngưỡng phổ thông. Với những bạn có vóc dáng thon thả thì rất thích hợp với áo dài, còn với những bạn có vóc dáng béo tròn thì mặc áo dài quả là cực hình. Trong những ngày mưa,đường lầy lội sẽ làm bẩn hết áo dài và màu trắng sẽ bị dây bẩn. Ngoài ra,mặc áo dài nữ sinh khó có thể vận động, chạy nhảy thỏai mái và trong những tháng nóng nực thì áo dài càng làm nóng bức và dẫn đến mệt mỏi.
Ở nước ngòai , đặc biệt là những nước tiên tiến, phát triển trên thế giới, trang phục đi học
là tự do. Các học sinh, sinh viên chỉ cần mặc quần áo gọn gang, sạch sẽ, lịch sự là được. Tuy thỏai mái về ăn mặc nhưng nền giáo dục của họ rất tiên tiến, họ không quan tâm đến bề ngòai mà chỉ quan tâm đến chất lượng học tập. Từ xưa đến nay, áo dài là một nét truyền thống văn hóa của người Vịệt Nam . Người ta luôn mặc nó trong những ngày lễ hội, Tết nhưng việc mặc áo dài vào trường học chưa được xem xét kĩ. Có thực trạng rằng các bạn nữ sinh thường cột lên hay xăng lên đề dễ vận động, có bạn vì nóng bức cởi cả nút áo, nếu vậy còn đâu là áo dài truyền thống ?
Hơn nữa, không phải gia đình nào cũng có điều kiện may cho con em mình vài bộ
áo dài để mặc, trong khi đó giá một bộ đồng phục lại rẻ hơn nhiều, phụ huynh cũng không phải tốn công đi mua vải, tìm thợ may cho con em mình một bộ vừa ý.
Việc mặc đồng phục khi đến trường là một quy định bắt buộc đối với nhiều trường phổ thông hiện nay và không thể phủ nhận rằng những tà áo dài trắng chỉnh tề đã làm nên một nét đẹp thể hiện sự quy cũ, tính kỉ luật và trang nghiêm trong mái trường chúng ta. Nếu việc mặc đồng phục khi đến trường được coi như một nội quy bắt buộc thì đã có sự đa dạng trong mẫu mã và kiểu dáng của bộ đồng phục học sinh. Như trước kia, hễ nghĩ đến bộ đồng phục học sinh, chúng ta thường nghĩ đến quần xanh , áo trắng dàng chon am, áo dài trắng dành cho nữ thì mẫu đồng phục sau nhiều năm trở nên đa dạng. Trước đây khi thực hiện, mặc đồng phục có rất nhiều ý kiến trái ngược nhau, song giờ đây việc mặc dồng phục đã tạo nên phong trào giữa các trường phổ thông, tạo nên nét đẹp mới cho mái trường Việt Nam .
Những bộ váy ca rô xếp nếp kết hợp với áo sơ mi trắng, những chiếc quần tây kết hợp cùng cà vạt đồng màu đem lại sự thỏai mái cho người mặc. Những bộ đồng phục này đã được cách tân và tiện dụng hơn rất nhiều, chúng mát hơn, thấm hút mồ hôi nhanh hơn, người mặc dễ vận động, góp phần không nhỏ vào việc giúp các bạn học tốt hơn, năng động và sang tạo hơn, lứa tuổi mới lớn sẽ hổn nhiên hơn, không còn bị gò bó trong tà áo dài cổ kính.
Tuy nhiên, bộ đồng phục hiện đại cũng làm mất đi vẻ đẹp dịu dàng, thướt tha vốn có của nữ sinh. Mai sau, khi rời xa mái trường, cũng không có gì động lại trong tâm trí, không còn hình ảnh đáng nhớ về một thời cắp sách tới trường.
Tốt hơn là nên kết hợp cả trang phục truyền thống và hiện đại. Nhiều trường phổ thông đã
áp dụng mặc áo dài vào ngày đầu tuần và đồng phục cho những ngày còn lại. Biện pháp đó là hiệu quả nhất vì vừa giữ được nét đẹp truyền thống mà các bạn nữ sinh chỉ phải mặc áo dài vào thứ hai, nên sẽ cảm thấy thỏai mái hơn, đem đến hiệu quả học tập cao hơn. Cho dù là áo dài truyền thống hay đồng phục hiện đại thì nữ sinh cũng nên giữ phẩm chất của mình, luôn trong sáng, dịu dàng hồn nhiên và chấp hành tốt nội quy nhà trường.
Áo dài truyền thống và đồng phục hiện đại nên giao hòa với nhau tạo nên nét đẹp đáng yêu cho nữ sinh, vừa tôn lên nét đẹp truyền thống vừa tạo nên nét đẹp mới cho mái trường Việt Nam .
Nguồn: Lính Chì - Web langsao

File đính kèm:

  • doc2 BÀI VĂN NGHỊ LUẬN XH VỀ VĂN HÓA DÂN TỘC.doc