Bài giảng Chương I: Những trang đầu trong lịch sử đội ta
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Bài giảng Chương I: Những trang đầu trong lịch sử đội ta, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
CHƯƠNG I NHỮNG TRANG ĐẦU TRONG LỊCH SỬ ĐỘI TA Trong đêm đen nô lệ lầm than dưới ách thống trị tàn bạo của thực dân Pháp và phong kiến, thiếu nhi nước ta cũng như cha anh mình đã bị tước mất quyền sống, quyền làm người, lớn lên trong đói khổ, chịu chung cảnh nước mất nhà tan. Uất hận tràn đầy, chí sĩ yêu nước Phan Bội Châu đã phải thốt lên: Nghĩ lắm lúc bầm gan tím ruột Vạch trời cao mà tuốt gươm ra! Cho đến đầu thế kỷ XX, nhiều lớp cha ông chúng ta đã "tuốt gươm ra" vùng lên trong các cuộc khởi nghĩa quyết giành lại độc lập, tự do cho dân tộc nhưng đều bị đế quốc, phong kiến dìm trong biển máu. Nguyên nhân cơ bản của mọi thất bại ấy là do chưa có đường lối đúng, chưa có một tổ chức chặt chẽ đảm đương vai trò lãnh đạo. Giữa lúc đó, vào năm 1911, ở tuổi 20, người thanh niên yêu nước Nguyễn Tất Thành - Bác Hồ kính yêu của chúng ta xuống tàu thủy tại Bến Nhà Rồng (thành phố Sài Gòn) đi ra nước ngoài với ý thức tìm hiểu các nước, kể cả nước Pháp rồi sẽ "Trở về nước đi vào quần chúng, thức tỉnh họ, tổ chức, đoàn kết và huấn luyện để đưa họ đấu tranh giành quyền tự do, độc lập". Bác đã đến Pháp, đi qua nhiều nước châu Phi, đến Mỹ, Anh rồi trở lại Pháp vào cuối năm 1917 lấy tên mới là Nguyễn ái Quốc. Tại Paris, Người kết bạn với nhiều nhà hoạt động chính trị, xã hội, văn hóa... nổi tiếng. Người lập ra các tổ chức yêu nước của người Việt Nam và các thuộc địa khác của Pháp, xuất bản báo "Người cùng khổ" gửi về nước để thức tỉnh đồng bào và thực hiện cuộc đấu tranh bằng nhiều hình thức chống lại chính sách cai trị khắc nghiệt của đế quốc Pháp. Sau khi được đọc bản "Sơ thảo lần thứ nhất Luận cương về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa" của Lênin, Bác Hồ hoàn toàn tin theo Lênin. Tại Đại hội Đảng xã hội Pháp, tháng 12-1920, Bác đã bỏ phiếu tán thành việc gia nhập Quốc tế III, trực tiếp tham gia thành lập Đảng Cộng sản Pháp và trở thành người cộng sản Việt Nam đầu tiên. Một ngày đẹp trời cuối tháng 6 năm 1923, Bác Hồ đặt chân lên đất nước Lênin, chuẩn bị dự Đại hội Quốc tế cộng sản lần thứ 5 sẽ khai diễn tại Matxcơva. Trong thời gian chuẩn bị, Bác đi thăm nhiều nơi để tìm hiểu xã hội Liên Xô về các mặt trong đó Người rất chú ý đến vấn đề thiếu niên, nhi đồng. Tác giả Trần Dân Tiên trong tác phẩm "Những mẩu chuyện về đời hoạt động của Hồ Chủ tịch" có đoạn kể lại: "...Vì ông Nguyễn rất yêu trẻ con nên ông nghiên cứu kỹ vấn đề nhi đồng ở Liên Xô. Lúc mới đẻ, mỗi đứa trẻ được giúp tiền may quần áo, được uống sữa lọc trong chín tháng không mất tiền. Mỗi tuần thầy thuốc đến thăm nhiều lần... Nhờ sự săn sóc như thế, trẻ em lớn lên tươi đẹp như hoa hồng mùa xuân. Đến tám tuổi trẻ em bắt đầu đi học. Học sinh mỗi buổi sáng được ăn một bữa không mất tiền... Ngoài trường học thì có Đội thiếu nhi chăm sóc các em. Nói tóm lại, cái gì tốt nhất đều dành cho trẻ em. Nếu nước Nga chưa phải là thiên đường cho tất cả mọi người thì nước Nga đã là một thiên đường của trẻ em. Thiên đường của trẻ con này làm cho ông Nguyễn không quên Tổ quốc Việt Nam. Ông cũng muốn làm cho chúng sung sướng, mạnh khỏe như trẻ em Liên Xô...". Cuối năm 1924, Bác Hồ đến Quảng Châu (Trung Quốc) với trách nhiệm nặng nề đối với phong trào cách mạng ở Đông Dương và châu á. Người khẩn trương tìm hiểu tình hình và tìm cách bắt liên lạc với những thanh niên Việt Nam yêu nước đang có mặt tại đây. Giữa năm 1925, Bác Hồ sáng lập ra tổ chức Việt Nam cách mạng thanh niên và cùng các đồng chí khác mở nhiều lớp huấn luyện chính trị đưa thanh niên trong nước ra học. Bác kể rằng: "Năm 1925, Hội thanh niên cách mạng đồng chí thành lập nhằm chuẩn bị điều kiện để tổ chức Đảng Cộng sản Việt Nam. Ngay sau khi thành lập, Hội đã lo đến việc tổ chức và lãnh đạo đoàn thể riêng của thanh niên cách mạng. Hội đã chọn 8 em Việt kiều ở Xiêm (nay là Thái Lan) đưa sang Quảng Châu để bồi dưỡng thành hạt nhân của Đoàn thanh niên sau này". Đây là sự kiện có ý nghĩa đặc biệt đối với sự ra đời của Đoàn và của Đội ta. Bác Hồ vừa giao trách nhiệm cho Tổng bộ Việt Nam cách mạng thanh niên vừa trực tiếp cử người về nước và cử đồng chí Hồ Tùng Mậu sang Xiêm (tức Thái Lan ngày nay). Khi đến vùng Trung Bộ nước Thái, đồng chí Hồ Tùng Mậu bắt liên lạc với một sĩ phu yêu nước là cụ Đặng Thúc Hứa mà bà con Việt kiều ở Thái lúc này thường gọi là cụ Tú Đặng. Mọi việc được thu xếp nhanh chóng. Nhóm thiếu niên được chọn do một cơ sở của cụ Tú Đặng bí mật đưa về Băng Cốc. Tất cả đều được hóa trang thành người Hoa kiều. Người dẫn đường cùng 8 thiếu niên xuống chiếc tàu biển mang tên Di Hòa thuộc một công ty thương mại của Anh quốc. Họ nói tiếng Hoa và tiếng Anh khá trôi chảy vì trước đây họ đã học ở Hoa Anh học hiệu Phi Chít. Hai ngày sau cả đoàn đến Quảng Châu và liền được gặp Bác. Tám thiếu niên ấy người ít tuổi nhất 12, người lớn tuổi nhất là 15. Để giữ bí mật và xác định mối quan hệ họ hàng với Bác Hồ, tất cả đều lấy họ Lý, theo họ của Bác lúc này với tên họ mới là Lý Thụy, hoặc gọi Bác bằng bí danh là đồng chí Vương. Tám thiếu niên họ Lý gồm: 1. Lý Tự Trọng tên thật là Lê Văn Trọng. 2. Lý Văn Minh " Đinh Chương Long 3. Lý Thúc Chất " Vương Thúc Thoại 4. Lý Anh Tợ " Hoàng Tự 5. Lý Nam Thanh " Nguyễn Sinh Thản 6. Lý Trí Thông " Ngô Trí Thông 7. Lý Phương Đức " Ngô Hậu Đức 8. Lý Phương Thuận " Nguyễn Thị Tích. Hai thiếu niên sau cùng (thứ 7 và thứ 8) là nữ. Từ giữa năm 1925 cho đến giữa năm 1926, tám thiếu niên này được Bác Hồ tổ chức thành một lớp học riêng vừa để tiếp tục nâng cao trình độ văn hóa vừa học chính trị theo một chương trình phù hợp. Ngày 22-7-1926, từ Quảng Châu, Bác đã viết thư gửi ủy ban Trung ương Đội Thiếu niên Tiền phong Lênin (Liên Xô) nói rõ: "Chúng tôi có tại đây (Quảng Châu, Trung Quốc) một nhóm thiếu niên Việt Nam. Tuổi các em từ 12 đến 15. Đó là các thiếu niên cộng sản đầu tiên của nước Việt Nam. Khi chúng tôi nói với các em về cuộc cách mạng Nga, về Lênin và về các bạn, những người Lêninnít Nga trẻ tuổi thì các em rất sung sướng và đòi hỏi được đến với các bạn để thăm các bạn, học với các bạn và cũng như các bạn để trở thành những người Lêninnít trẻ tuổi chân chính. Chúng tôi đã hứa với các em là sẽ viết thư cho các bạn về vấn đề này. Và giờ đây tôi đã làm việc ấy. Chúng tôi hy vọng rằng các bạn sẽ không từ chối tiếp nhận 3 hay 4 bạn nhỏ Việt Nam của các bạn có phải không?..." Đề nghị trên của Bác Hồ đã được Trung ương Đoàn TNCS Lênin và ủy ban Trung ương Đội Thiếu niên Tiền phong Lênin (Liên Xô) đáp ứng một cách nồng nhiệt. Tuy nhiên, liền sau đó tình hình chính trị ở Quảng Châu diễn biến phức tạp nên chủ trương gửi các thiếu niên Việt Nam sang Liên Xô học tập không thực hiện được. Phái phản động trong Quốc dân đảng do Tưởng Giới Thạch cầm đầu đã thi hành chính sách đàn áp, khủng bố những người cộng sản Trung Quốc và Việt Nam. Tám thiếu niên Việt Nam cùng nhiều đồng chí khác dần dần bị bắt. Đảng Cộng sản Trung Quốc tích cực giúp họ mời luật sư nổi tiếng Tạ Anh Bá bảo vệ cho họ. Nhờ vậy, sau nhiều tháng thẩm vấn, phái phản động buộc phải thả các đồng chí Việt Nam bị bắt cùng tất cả các thiếu niên nêu trên. Lúc này, các thiếu niên đều đã trở thành đoàn viên TNCS. Trước tình hình hết sức khó khăn do phái phản động tăng cường khủng bố, tám đoàn viên TNCS theo hướng dẫn của các đảng viên đã tùy hoàn cảnh, điều kiện thực hiện nhiệm vụ cách mạng của mình. Một số về nước hoạt động như Lý Tự Trọng (1929-1931) và sau này là Lý Phương Thuận. Một số di chuyển về nông thôn hoặc vào các nhà máy tham gia công tác vận động quần chúng trên đất nước bạn. Một số tìm đường sang Liên Xô tiếp tục học tập theo chủ trương của Bác Hồ trước đây. Khi khởi nghĩa Quảng Châu (còn gọi là Quảng Châu công xã) nổ ra, các đồng chí Việt Nam và các đoàn viên TNCS thuộc lớp đầu tiên này đã tích cực tham gia vào các đơn vị tự vệ công nhân của bạn làm nhiệm vụ bảo vệ nhà máy, chống đàn áp và tuyên truyền, vận động quần chúng phản ánh tình cảm cách mạng gắn bó giữa nhân dân hai nước Việt - Trung và lý tưởng quốc tế chủ nghĩa trong sáng của những người cộng sản trẻ tuổi. Năm 1929, Lý Tự Trọng về nước hoạt động. Anh đã bắn chết tên mật thám Pháp ngay trên đường phố Sài Gòn để bảo vệ đồng chí mình và trở thành tấm gương tiêu biểu cho tinh thần bất khuất với lời nói đanh thép trước tòa án đế quốc Pháp: "Tôi hành động có suy nghĩ, tôi hiểu việc tôi làm. Con đường của thanh niên chỉ là con đường cách mạng, không có con đường nào khác". Theo dõi hành động anh hùng của Lý Tự Trọng, ngày 21-2-1931 Bác Hồ đã gửi thư cho Bộ Phương Đông Quốc tế cộng sản báo tin này và đề nghị Bộ Phương Đông yêu cầu Đảng Cộng sản Pháp tổ chức các hoạt động, kể cả biểu tình đòi trả tự do cho Lý Tự Trọng. Song bất chấp mọi sự phản đối của dư luận bọn đế quốc vẫn sát hại anh. Lý Tự Trọng hi sinh kiên cường giữa tuổi 17 để lại cho chúng ta bản "Tuyên ngôn" bất diệt về con đường cách mạng của các thế hệ trẻ Việt Nam. Vào thời gian này, Bác Hồ trở lại Hương Cảng để chủ trì hội nghị hợp nhất thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam. Do một sơ suất từ bên ngoài, Bác bị mật thám Anh bắt giữ. Cùng bị bắt với Bác có Lý Phương Thuận (một trong tám thiếu niên đã giới thiệu ở trên) đang hoạt động tại đây với tên gọi là Lý Tam (hoặc cô Ba). Lý Phương Thuận đã giữ vững tinh thần cách mạng, không hề khai báo gì với cảnh sát Anh. Vụ án Tống Văn Sơ (tên mới của Bác Hồ lúc này) làm chấn động dư luận tại Hương Cảng và cả ở Anh, Pháp (mật thám Pháp vận động nhà cầm quyền Anh trao Bác cho chúng). Luật sư nổi tiếng Lôdơbai đã vượt qua nhiều khó khăn cứu thoát Bác Hồ ra khỏi nhà tù và vợ chồng ông đã hết lòng giúp Bác trở lại Liên Xô. Đại chiến thế giới lần thứ hai nổ ra. Phát xít Đức tập trung binh lực tấn công Liên Xô hòng tiêu diệt nước XHCN đầu tiên trên thế giới. Sư đoàn quốc tế chống phát xít thành lập ở Matxcơva bao gồm những người cộng sản trẻ tuổi ở nhiều nước đang học tập, công tác tại Liên Xô. Lý Nam Thanh, Lý Thúc Chất, Lý Anh Tợ... cùng các đồng chí Việt Nam khác tình nguyện tham gia Sư đoàn quốc tế bảo vệ Liên Xô. Đó là ba trong số "tám cháu hiếm hoi từ bước đầu ấy" do Bác Hồ giáo dục, rèn luyện giờ đây đã trở thành cán bộ, chiến sĩ chiến đấu ngoan cường vì nghĩa vụ Quốc tế cao cả. Cả ba đồng chí đã vĩnh viễn nằm lại trên quê hương V.I. Lênin vĩ đại tại trận địa phía Nam Matxcơva. Nhà nước Liên Xô đã tặng thưởng ba đồng chí huân chương cao quý: Huân chương Vệ quốc hạng Nhất. Trang đầu trong cuốn biên niên sử của Đội ta mở ra như thế đó. Từ "Các thiếu niên cộng sản đầu tiên" Bác Hồ và các đồng chí của Người đã bồi dưỡng, rèn luyện trở thành "Tám đoàn viên hiếm hoi buổi ban đầu". Đó là những mầm non của cách mạng, là những tấm gương tiêu biểu cho thế hệ trẻ Việt Nam, mãi mãi là niềm tự hào của chúng ta. Những thiếu niên cộng sản và đoàn viên thanh niên cộng sản vẻ vang ấy mãi mãi xứng đáng với lòng tin yêu và sự tôn vinh của các thế hệ thanh thiếu niên nước ta cũng như cả dân tộc ta. Tại buổi lễ trọng thể kỷ niệm 35 năm ngày thành lập Đoàn, Bác Hồ dạy: "Là người theo dõi tổ chức thanh niên từ bước đầu hiếm hoi chỉ có tám cháu, ngày nay trông thấy có hàng triệu đoàn viên, thanh niên, hàng triệu cháu bé nhi đồng phát triển mơn mởn như hoa nở mùa xuân. Với một thế hệ thanh niên hăng hái và kiên cường, chúng ta nhất định thành công trong sự nghiệp bảo vệ miền Bắc, giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc. Vì vậy, Bác rất tự hào, sung sướng và thấy mình như trẻ lại, thấy tương lai của Tổ quốc ta vô cùng vững chắc và vẻ vang...". * * * Ngày 3-2-1930, Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời đảm đương sứ mệnh cao cả lãnh đạo giai cấp công nhân và toàn thể nhân dân ta đấu tranh giành giải phóng dân tộc và giai cấp. Từ đó, phong trào thanh thiếu nhi nước ta ngày càng phát triển mạnh mẽ. Tổ chức Đội từng bước được hình thành. Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng lần thứ nhất (khóa I) tháng 10 năm 1930 đã ban hành một văn kiện hết sức quan trọng về công tác thanh niên trong đó đã đề cập đến việc tập hợp thiếu nhi vào các tổ chức Thiếu niên cách mạng, Hồng nhi đoàn... và giao cho Đoàn phụ trách. Sau khi Đảng ta ra đời, từ tháng 6 đến tháng 8 năm 1930, cả nước nổ ra nhiều cuộc đấu tranh lớn mà tiêu biểu là phong trào Xô viết Nghệ - Tĩnh. Các chi bộ Đảng ở hai tỉnh này đã tập hợp được 513 đội viên thiếu niên cách mạng. Các đội viên chia thành từng tổ dưới sự hướng dẫn của các đảng viên và đoàn viên làm nhiệm vụ giao thông liên lạc, canh gác. Riêng ở Phong Nẫm (huyện Thanh Chương - Nghệ An) có hơn 20 đội viên thiếu niên cách mạng hoạt động dưới sự hướng dẫn của đồng chí Lê Cảnh Nhượng, Bí thư chi bộ Đoàn địa phương. Ngoài việc canh gác, làm giao liên, các đội viên còn tham gia học tập quân sự do các "xích vệ đội" tổ chức, hướng dẫn và hăng hái thực hiện các công việc như rải truyền đơn, treo cờ Đảng. ở xã Nam Trung (huyện Nam Đàn) đã ra đời tổ chức thiếu nhi lấy tên là Đội Đồng Tử quân. Ngày 12-9-1930, các đội viên Đồng Tử quân đã cùng cha anh tham gia thành lập chính quyền Xô viết ở địa phương. Cũng vào thời gian này tại Thái Bình, Đội Đồng Tử quân huyện Tiền Hải được thành lập. Các đội viên đã tham gia tích cực vào hàng ngũ những bà con nông dân đi đấu tranh đòi giảm thuế, chống địa chủ cướp đất. Đến thời kỳ 1936-1939, thực hiện chủ trương chuyển hướng hoạt động của Đảng, Đoàn Thanh niên Dân chủ đã tổ chức nhiều lớp học chữ quốc ngữ cho thiếu nhi qua đó tập hợp thiếu nhi vào các hình thức tổ chức văn hóa, văn nghệ như các Đội kịch, Đội ca nhạc, Đội bóng... Hai tờ báo công khai của Đoàn ở Hà Nội và Sài Gòn là "Thế giới" và "Mới" đã có nhiều bài viết về công tác vận động thiếu nhi. Trước sức mạnh đấu tranh của các tầng lớp nhân dân, theo lệnh chính phủ Pháp, toàn quyền Đông Dương đã phải ra một nghị định nêu rõ kể từ ngày 1-11-1936 "Cấm bắt đàn bà, trẻ em làm việc ban đêm". Vào thời gian này ở một số tỉnh như Hà Đông, Nam Định, Hải Phòng,v.v... nhiều tổ chức Hồng nhi đoàn được thành lập, nhiều đội viên hoạt động rất hăng hái trong các đội kịch, đội múa, hoặc các ban đồng ca do tổ chức Đoàn Thanh niên Dân chủ hướng dẫn. Bước sang năm 1941, tình hình thế giới và trong nước diễn biến ngày một khẩn trương và phức tạp. Phát xít Nhật nhảy vào Đông Dương, nhân dân Đông Dương chịu cảnh "một cổ hai tròng" dưới ách thống trị tàn bạo của Nhật - Pháp nên ngày một bần cùng, đói khổ... do vậy ngày càng nhanh chóng giác ngộ cách mạng. Tháng 1 năm 1941, lãnh tụ Nguyễn ái Quốc bí mật về nước ở vùng Pác Pó (Cao Bằng) để trực tiếp lãnh đạo phong trào cách mạng Việt Nam. Đây là một sự kiện hết sức quan trọng trong tiến trình phát triển của cách mạng nước ta. Tháng 5 năm 1941, Hội nghị lần thứ 8 của Trung ương Đảng do lãnh tụ Nguyễn ái Quốc với tư cách là đại diện của Quốc tế cộng sản triệu tập và chủ trì. Hội nghị chủ trương tổ chức ra các đoàn thể cứu quốc và thành lập Việt Nam độc lập Đồng minh (gọi tắt là Việt minh). Hội nhi đồng cứu quốc ra đời ở Nà Mạ (vùng Pác Bó) và được gia nhập Mặt trận Việt Minh. Ngày ấy là 15-5-1941, ngày lịch sử vẻ vang của Đội ta. Vào dịp này, Bác Hồ kính yêu viết bài "Kêu gọi thiếu nhi" thể hiện tình cảm yêu thương và sự chăm sóc ân cần của Người đối với các cháu. Bài "Trẻ con" mở đầu bằng một đoạn đầy xúc động: "Trẻ em như búp trên cành, Biết ăn ngủ, biết học hành là ngoan, Chẳng may vận nước gian nan, Trẻ em cũng bị bận thân cực lòng"... Bác khẳng định: "Kẻ lớn cứu quốc đã đành Trẻ em cũng phải ra giành một vai. Bao giờ đuổi đuổi Nhật, Tây, Trẻ em ta sẽ là bầy con cưng" Và trong bài "Trẻ chăn trâu" Bác đã kêu gọi thiếu nhi: "Cùng nhau đánh đuổi Nhật, Tây. Anh em ta mới có ngày vinh hoa. "Nhi đồng cứu quốc" Hội ta, ấy là lực lượng, ấy là cứu sinh. ấy là bộ phận Việt Minh, Dân mình khắc cứu dân mình mới xong. Ai nghe mà chẳng động lòng, Khá thương con trẻ mục đồng Việt Nam". Những lời thơ thật giản dị nhưng chứa chan tình yêu nước, nghĩa đồng bào đã được nhanh chóng lan truyền trong thiếu nhi Nà Mạ và cả vùng Hà Quảng. Từ các em biết chữ đến các em chưa biết chữ được bè bạn trong tổ chức truyền miệng cho đã thuộc lòng bài thơ "Kêu gọi thiếu nhi" của Bác. Sau Hội nghị Trung ương lần thứ 8, đội ngũ cán bộ cách mạng do Bác Hồ và Đảng ta đào tạo, bồi dưỡng trước đó được phân công toả về các địa phương trong cả nước để cùng các cán bộ, đảng viên vận động phong trào cách mạng với một quyết tâm rất cao: "Trong lúc này, nếu không giải quyết được vấn đề dân tộc giải phóng, không đòi được độc lập, tự do cho toàn thể dân tộc thì chẳng những toàn thể quốc gia, dân tộc còn chịu mãi kiếp ngựa trâu, mà quyền lợi của bộ phận giai cấp đến vạn năm cũng không đòi lại được" (Nghị quyết Hội nghị Trung ương lần thứ 8 tháng 5 - 1941). Trong số cán bộ nói trên anh Đức Thanh được Bác Hồ giao cho nhiệm vụ tổ chức Đoàn Thanh niên Cứu quốc Hà Quảng và Hội Nhi đồng Cứu quốc. Anh là người trực tiếp soạn thảo Điều lệ Đoàn và Hội Nhi đồng trình Bác cho ý kiến sửa chữa rồi tổ chức in ngay trong hang Cốc Bó, nơi Bác Hồ đặt cơ quan của Đảng và Tổng bộ Việt Minh. "Máy in" là những phiến đá, một kiểu in theo cách viết chữ ngược bằng mực lên các phiến đá được mài nhẵn. Giấy in là loại giấy được làm bằng bột cây dó gọi là giấy dó sản xuất tại địa phương. Anh Đức Thanh tuyên truyền, giác ngộ được một số thanh niên trong vùng như các anh Phục Hưng, Phục Quốc, Bát Ngư... bồi dưỡng các đồng chí này trở thành những đoàn viên rồi giao nhiệm vụ cho các anh tìm các thiếu niên dũng cảm, tin cậy để tổ chức vào Hội Nhi đồng Cứu quốc. Vào giữa năm 1941, ở Nà Mạ có nhiều người được vào Hội bí mật. Họ kín đáo kể cho nhau nghe về một "Ông già cách mạng" có tên là Thu Sơn. Đôi khi họ còn gọi ông với tên gọi rất thân mật như người trong họ tộc là "Ông Ké". Cụ Thu Sơn hay Ông Ké, Ông già cách mạng, chính là Bác Hồ kính yêu đang có mặt ở vùng này. Nhận nhiệm vụ của anh Đức Thanh giao cho, nhiều lần anh Bát Ngư nói chuyện với Nông Văn Dền, một thiếu niên hoạt bát, chịu khó và dũng cảm rất căm thù tội ác của giặc Pháp và bọn lính trên đồn. Dền rất căm giận và tỏ ý muốn theo giúp anh Bát Ngư. Dền đoán là anh Bát Ngư đang làm việc gì đó để đánh Tây, chống bọn thống lý, phìa tạo. Đôi lần anh Bát Ngư nhờ Dền đưa lá thư cho anh Phục Quốc, anh Phục Hưng... bảo là phải đi ngay mặc dù đêm đã xuống. Dền chẳng ngần ngại gì cả. Anh Bát Ngư rất ưng ý và quyết tâm đưa Dền đến gặp anh Đức Thanh để nghe anh ấy nói thêm về những điều mới lạ, về "Ông già cách mạng", về Đoàn thanh niên. * * * Và rồi, đúng một tháng sau, Dền đã chép lại bản Điều lệ Hội Nhi đồng Cứu quốc và trao cho bốn bạn thân thiết nhất cùng có nguyện vọng gia nhập Hội. Thế là tất cả đã sẵn sàng. Hôm nay mỗi người một con dao cài ở thắt lưng, một bó dây, một mo cơm. Như thường lệ, họ rủ nhau vào rừng đào củ, kiếm củi. Ai mà biết được họ đi đâu? Anh cán bộ đã gặp Dền, đưa Dền đến trước cái hang dơi bí ẩn, nơi anh dựng cái lán nhỏ để ăn ở và làm việc cách mạng khi cần, còn hàng ngày anh vẫn ở với dân, sinh hoạt với dân, cuốc đất với các anh thanh niên. Hang dơi bí ẩn chính là nơi anh cất giấu tài liệu và chưa một lần nào Dền được vào. Chiếc lán nhỏ nép mình dưới tán cây rậm rạp đây rồi, nó là cái chòi để giữ ngô hoặc là nơi dừng chân của người đi săn thú, kiếm củi... khó mà nghĩ rằng đây là "Trụ sở", là "Hội trường" mà anh Đức Thanh cùng các đồng chí của mình đã nhiều lần cùng nhau khai hội bàn về các công việc của đoàn thể. Còn cái hang dơi bí ẩn kia, nơi trú ngụ của vô vàn chú dơi lại là cái kho lưu giữ tài liệu, lương thực mà cái miệng của nó lúc nào cũng được che lấp bởi các bụi cây rậm rạp có lẽ chỉ có anh Thanh mới đi lại dễ dàng không hề lo ngại rắn rết. Bây giờ trăng đã lên cao, chung quanh tĩnh mịch lạ thường. Tháng năm rồi mà đêm vẫn còn sương và se lạnh... Dền tiến đến và chuyển cho anh Đức Thanh phong thư nhỏ dán kín của anh Bát Ngư. Anh Đức Thanh gom một ít củi khô và đốt lên ngọn lửa, tất cả ngồi quây quanh. Trên chiếc hòm gỗ, anh đặt cuốn Điều lệ Hội Nhi đồng Cứu quốc và lá cờ đỏ sao vàng. - Các em đã đọc Điều lệ, còn chỗ nào chưa hiểu? Các bạn thay nhau hỏi, anh trả lời rành rọt cho từng câu hỏi. Trả lời xong, anh đặt cuốn Điều lệ lại chỗ cũ và cầm lá cờ mở rộng trước mặt các em nói: - Đây là lá cờ Tổ quốc. Màu đỏ tượng trưng cho sức mạnh chiến đấu, truyền thống quật cường của ông cha, ngôi sao vàng là ngôi sao dẫn đường chỉ lối cho chúng ta đấu tranh đi đến cuộc đời hạnh phúc, ấm no. Từ nay trở đi chúng ta chiến đấu dưới lá cờ này, không sợ gian khổ, không sợ hy sinh, mọi người đều gắng sức làm sao cho nước nhà được độc lập, tự do. Dân ta được ấm no, hạnh phúc... Trước khi các hội viên tự mình đọc lời thề trong lễ kết nạp, anh Đức Thanh đề nghị mỗi bạn chọn cho mình một tên mới, tên cách mạng nhằm đảm bảo nguyên tắc bí mật. Thật là một việc mới lạ, các bạn nhỏ cứ nhìn nhau lúng túng. Anh Đức Thanh hiểu ý bèn nói ngay: - Thôi được, anh sẽ giúp các em, chọn cho mỗi người một "bí danh" nhé, bí danh là tên bí mật đấy, nói thế cho dễ hiểu. Bây giờ anh đề nghị tìm bí danh cho các bạn gái trước. - Nhà hai em ở gần suối, thế thì hai em mỗi người lấy một tên suối, một tên hoa; Xậu là Thanh Thủy. Thanh Thủy là nước suối trong xanh; còn Nì là Thủy Tiên. Thủy Tiên hiểu là hoa tiên bên suối. Tất cả đều reo lên: - Tên cách mạng hay thật! Anh Đức Thanh cùng cười rất vui, tiếp tục đặt bí danh cho các bạn trai. Hai bạn ngồi cạnh Dền, anh Thanh đặt cho Thàn bí danh là Cao Sơn và Tinh bí danh là Thanh Minh. Đến lượt Nông Văn Dền, anh Đức Thanh suy nghĩ một lúc rồi nói: Dền sẽ lấy tên nói lên một tinh thần gan dạ, tính cứng rắn của em. Vậy tên em là Kim Đồng. Kim Đồng có thể hiểu là một chú bé gang thép. Nào các bạn thấy có được không? Bốn bạn nhỏ, trừ Dền, đều đồng thanh: - Phải đấy, Dền giỏi lắm, tên đó đúng với Dền. Anh Đức Thanh khơi cho đống lửa cháy bùng lên, soi tỏ gương mặt trang nghiêm của mọi người. Anh đứng dậy, hai tay từ từ nâng cao lá cờ Tổ quốc. Lá cờ đỏ thắm càng thắm đỏ hơn lên trước ánh lửa. Năm bạn nhỏ đứng dậy, từng người, từng người đọc lời thề. Đó là năm Hội viên Hội Nhi đồng Cứu quốc đầu tiên (sau này gọi là đội viên) của Đội ta, năm bông hoa tươi đẹp được Bác Hồ kính yêu và Đảng Cộng sản Việt Nam trực tiếp chăm lo ân cần, được Đoàn Thanh niên Cứu quốc do các anh Đức Thanh, Bát Ngư, Phục Quốc... dìu dắt hàng ngày. Chẳng bao lâu sau, cả Nà Mạ, Hà Quảng và cả tỉnh Cao Bằng, số lượng đội viên lên đến hàng trăm. Nghị quyết Hội nghị Trung ương lần thứ 8 và các Nghị quyết của Ban Thường vụ Trung ương Đảng về những nhiệm vụ trọng yếu trong thời kỳ cách mạng mới đầy khó khăn, thử thách nhằm tới đích là giành lại chính quyền về tay nhân dân trong đó có việc xây dựng, phát triển tổ chức Đội được triển khai rộng khắp như ở huyện Vĩnh Tường (Vĩnh Phúc ngày nay) vào cuối năm 1941 đã xuất hiện nhiều cơ sở Hội nhi đồng. Riêng ở Nà Mạ năm đội viên đầu tiên hoạt động rất tích cực, anh Đức Thanh tổ chức lớp học văn hoá cho các bạn theo lời căn dặn của Bác Hồ. ít lâu sau hầu hết các đội viên đều biết chữ, đều thuộc lòng bài "Lịch sử nước ta" do Bác Hồ soạn bằng văn vần giản dị dễ nhớ, để khơi dậy lòng yêu nước nồng nàn của nhân dân ta trước hết là của thanh thiếu nhi. "... Quốc Toản là trẻ có tài, Mới mười sáu tuổi ra oan trận tiền, Mấy lần đánh thắng quân Nguyên, Được phong làm tướng cầm quyền binh nhung. Thật là một đấng anh hùng, Trẻ con Nam Việt nên cùng noi theo. Một chiều thu tháng 8, Kim Đồng vừa đi đưa bức thư sang bên Pài Cốc về thấy anh Ngư Mạn đã đợi dưới chân cầu thang nhà sàn. Anh ghé sát vào tai Kim Đồng: - Có một ông già cho gọi em lên đấy. - Anh có biết ai không? Anh Ngư Mạn ra hiệu và nói: - Bí mật, không hỏi, không nói được. Kim Đồng hồi hộp theo anh Ngư Mạn leo lên ngọn đồi rậm rạp sau bản. Đến trước cửa hang Nục én, anh dặn Kim Đồng chờ đó. Lát sau Kim Đồng thấy anh Đức Thanh tới, anh dẫn Kim Đồng vào một lối tắt... Bỗng Kim Đồng thấy một "Ông Ké" đang ung dung ngồi trên tảng đá xem sách. Trên khuôn mặt gầy, đôi mắt sáng lên trông thật hiền. Vẫn đang còn lúng túng vòng tay trước ngực chưa kịp chào, Kim Đồng đã nghe "Ông Ké" hỏi: - Cháu là Kim Đồng, thiếu nhi cứu quốc ở đây phải không? Kim Đồng khẽ đáp "Vâng ạ". Ông Ké vẫy tay Kim Đồng lại ngồi bên rồi hỏi: - Đọc chữ được chưa cháu? - Thưa được rồi ạ. Ông Ké bảo Kim Đồng kể chuyện hoạt động của Đội cho ông nghe rồi có lời khen làm cho Kim Đồng bạo dạn hơn lên. Ông dặn phải chăm học, biết đọc chữ nhưng còn phải biết làm toán. Ông còn dặn học cũng phải giữ bí mật vì Tây và cai Tổng biết nó bắt ngay, nó nghi cách mạng tổ chức dạy học, chúng muốn dân mình ngu dốt để áp bức, cai trị mãi. Khi mặt trời đã lặn, Kim Đồng thấy một người lạ xuất hiện với chiếc tay nải. Người đó dọn ra một "mâm cơm". Cơm gói trong lá chuối khô và một cái hộp sắt đựng thức ăn, đó là thịt rang mặn với ít ớt cay. Ông Ké xoa đầu Kim Đồng bảo cách mạng thành công thì đi học tiếp mới trở thành cán bộ như các anh này, này. Ông chỉ vào anh Đức Thanh, anh Ngư Mạn và người mới mang cơm đến. Sẩm tối, anh Đức Thanh dặn Kim Đồng: - Bây giờ chúng ta chuẩn bị đưa đường cho "Ông già cách mạng". Lúc này Kim Đồng mới thấy bàng hoàng vì rằng nãy giờ mình đã được ở bên "Ông già cách mạng" mà lâu nay đã nghe thấy... Anh Đức Thanh giao cho anh Ngư Mạn cái súng ngắn, ch
File đính kèm:
- TAI LIEU(5).doc