Bộ đề 10 ôn thi tốt nghiệp

doc3 trang | Chia sẻ: haohao | Lượt xem: 1322 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Bộ đề 10 ôn thi tốt nghiệp, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
BỘ ĐỀ 10Đề A: Câu 1: (2 điểm) Trình bày những nét chính về sự nghiệp văn học của Hemingway?Câu 2: (8 điểm) Phân tích hình tượng ông lái đò trong tùy bút “Người lái đò sông Đà” của Nguyễn Tuân. Đề B: Câu 1: (2 điểm) Những đề tài chính trong sáng tác của Nguyễn Tuân.Câu 2: (2 điểm) Trình bày ngắn gọn tình huống độc đáo, lãng mạn trong truyện “Mảnh trăng cuối rừng” (Nguyễn Minh Châu )Câu 3: (6 điểm) Phân tích đoạn thơ sau:“ Mỗi người một vẻ mặt con người Cuồn cuộn đau thương cháy dưới trờiCuộc họp lạ lùng trăm vật vãTượng không khóc cũng đổ mồ hôiMặt cúi, mặt nghiêng, mặt ngoảnh sauQuay theo tám hướng hỏi trời sâuMột câu hỏi lớn không lời đápCho đến bây giờ mặt vẫn chauCó thực trên đường tu đến phật Trần gian tìm cởi áo trầm luânBấy nhiêu quằn quại run lần chótCác vị đau theo lòng chúng nhân “( Các vị La hán chùa Tây Phương - Huy Cận )-------------------------------------------------------GỢI Ý LÀM BÀI BỘ ĐỀ 10ĐỀ A:Câu 1:Trình bày những nét chính về sự nghiệp văn học của HemingwaySự nghiệp văn chương của ông khá đồ sộ , trong đó có những tác phẩm tiêu biểu : Giã từ vũ khí , Ông già và biển cả , Chuông nguyện hồn ai , ...Hêminguê có một cuộc đời đầy sóng gió , một cây bút xông xáo không mệt mỏi .Ông là ngưòi đề xướng ra nguyên lí “ Tảng băng trôi” (Đại thể là nhà văn không trực tiếp phát ngôn cho ý tưởng của mình mà xây dựng hình tượng có nhiều sức gợi để người đọc có thể rút ra phần ẩn ý ).Đoạt giải Nobel về văn học năm 1954.Câu 2 Phân tích hình tượng ông lái đò trong tùy bút “Người lái đò sông Đà” của Nguyễn TuânNhân vật người lái đò được Nguyễn Tuân nhìn như là đối tượng của cái Đẹp. Theo Nguyễn Tuân, không cứ gì cứ là người hoạt động ở các ngành nghệ thuật họ mới là kẻ tài hoa nghệ sĩ. Mà những con người xung quanh chúng ta biết tôn trọng cái Đẹp đều có thể ứng xử Đẹp và tự giác sáng tạo ra cái Đẹp. Nghệ thuật ở đây chính là nó đã nhập thân vào người lái đò cả phương diện hình thức lẫn tính cách. “Trên thác hiên ngang một người lái đò sông Đà có tự do, vì người lái đò ấy nắm được quy luật tất yếu của dòng sông Đà. Hình ảnh người lái đò sông Đà được Nguyễn Tuân dựng tượng khiến cho ta như sờ mó được. Bức tượng ấy không phải là con người chung chung mà nó tạo dáng hết sức riêng biệt không thể đặt tên gì khác hơn là “người lái đò sông Đà”. Bức tượng hắt chiếu ra tính cách bên trong của con người này.“Tay ông dài lêu nghêu như cái sào, chân ông lúc nào… nhỡn giới ông vời vợi như lúc nào cũng mong một cái bến xa nào đó trong sương mù”. - Để làm nổi bật tài nghệ của ông lái đò, Nguyễn Tuân đã sáng tạo ra một cuộc vượt thác của ông như là một viên tướng ngày xưa lao vào một trận đồ bát quái của Khổng Minh với biết bao nhiêu cạm bẫy, hết vòng này đến vòng khác, và mỗi vòng, đá trên thác sông Đà đều có những viên tướng ti ba chỉ huy.Để áp đảo ông lái đi, đám “quân thác đá” còn nổi trống chiêng la hò dữ dội “Rống lên như ngàn con trâu mộng đang lồng lộn… rừng lửa cùng gầm thét với đàn trâu cháy bùng bùng”.Thật là một liên tưởng hết sức bất ngờ. Câu chuyện nói về “đá thác” ở đây là liên tưởng tới “đàn trâu” và “rừng bị cháy”. Nếu không có phong cách tài hoa táo bạo của Nguyễn Tuân khi xử lý những hiện tượng trên sẽ gây ra khập khiễng, phi lôgich. Đoạn văn dựng cảnh đầy giá trị tạo hình, nó như một cuốn phim quay cận cảnh và dựng lại đặc tả các chi tiết. Chính Nguyễn Tuân đã có ý định sử dụng vốn văn hóa về môn nghệ thuật thứ bảy này để dựng cảnh thạch trận thật ấn tượng. Ta cũng lưu ý thuật kể đầy hồi hộp, đầy kịch tính căng thẳng, vốn tri thức về quân sự và võ thuật được đưa ra ứng dụng. Quả là “ông lái đã nắm chắc được binh pháp của thần sông, thần đá. Ông đã thuộc qui luật phục kích của lũ đá…, Ông đã “cưỡi” lên thác sông Đà: “Nắm chặt lấy cái bờm sóng”, “bám chắc lấy luồng nước” lúc “phóng nhanh” lúc “lái miết”, nhớ mặt bọn đá “đứa thì ông tránh” “đứa thì ông đè xấn lên”…Ông lái đò quả là vị tướng đầy thao lược tài ba.Ông đang trình diễn nghệ thuật của mình với qui luật thiên nhiên khắc nghiệt. Nếu thiếu một chút bình tĩnh, thiếu một chút chính xác, ông phải trả giá bằng mạng sống của mình.Nguyễn Tuân quả là ưa khai thác những cảm giác mạnh để tác động những ấn tượng không phai mờ trong tâm não của độc giả về vẻ đẹp của ông lái đị, Không những là vẻ đẹp của bản lĩnh vượt thác phi thường mà cịn l vẻ đẹp của sự bình dị của con người sông nước bình thường. Qua nhân vật người lái đò, Nguyễn Tuân cho rằng chủ nghĩa anh hùng đâu phải tìm kiếm đâu xa. Nó có trong cuộc sống tìm miếng cơm manh áo của nhân dân lao động. Những người bình dị có trí dũng tài ba họ có thể tạo hình tạc mẫu cho nghệ thuật. Họ là đối tượng của cái đẹp, của ánh sáng thẩm mĩ hiện đại. ĐỀ B:Câu 1:Những đề tài chính trong sáng tác của Nguyễn Tuân.1. Trước cách mạng tháng 8:• Chủ nghĩa xê dịch : Một chuyến đi, Thiếu quê hương,….• Vẻ đẹp của vang bóng một thời : Vang bóng một thời, Tóc chị Hoài, …• Đời sống trụy lạc :Chiếc lư đồng mắt cua, đem đến cho ông những cảm giác mới lạ, mãnh liệt “ tôi muốn mỗi ngày trong cuộc sống của tôi, phải cho tôi cái say của rượu tối tân hôn”– Một lá thư không gởi .2. Sau cách mạng tháng 8 :• Cái đẹp của non sông gấm vóc, những phẩm chất tinh thần cao quí của nhân dân ta trong chiến đấu , lao động và xây dựng đất nước .Đường vui (1949), Tình chiến dịch (1950) Tùy bút kháng chiến (1955), Sông Đà (1960), Hà Nội ta đánh Mỹ giỏi (1972).Câu 2:Trình bày ngắn gọn tình huống độc đáo, lãng mạn trong truyện “Mảnh trăng cuối rừng”- Tình huống độc đáo: Đó là cuộc gặp mặt bất ngờ thú vị của hai người yêu nhau ( Nguyệt- mottj nữ thanh niên xung phong và Lãm - một chiến sĩ lái xe) nhưng chưa hề biết mặt và đến khi chia tay, họ vẫn không nhận ra nhau.- Đánh giá tình huống: Đó là một tình huống bất ngờ, hiếm có gợi nên tính hấp dẫn và lãng mạn cho thiên truyện. Thông qua tình huống này, Nguyễn Minh Châu muốn thể hiện quan niệm, trong chiến tranh điều gì cũng có thể xảy ra kể cả những điều kì diệu nhất, đẹp đẽ và lãng mạn nhất. Từ đó nhà văn đi đến khẳng định và đề cao cái đẹp trong hiện thực tàn khốc của chiến tranhCâu 3:Mở bài : Bài thơ “Các vị La Hán chùa Tây Phương” được Huy Cận viết vào năm 1960, được in trong tập “Bài thơ cuộc đời” (1963). Chùa Tây Phương là một chùa cổ đẹp nổi tiếng ở huyện Thạch Thất thuộc tỉnh Hà Tây. Có thuyết cho rằng chùa được xây dựng vào cuối thế kỷ 18. (Sách Văn 12). Lại có thuyết khẳng định: Chùa Tây Phương được xây dựng khá lâu đời. Năm 1554, chùa được trùng tu. Năm 1660, chúa Trịnh Tạc đến thăm và cho sửa sang lại, chùa càng đẹp hơn, quy mô hơn. Đến đời Tây Sơn, chùa lại được trùng tu một lần nữa và đúc chuông “Tây Phương cổ tự” (theo Nguyễn Phi Hoành).Thân bài :Ngắm nhìn các pho tượng La Hán chùa Tây Phương – công trình mĩ thuật tuyệt diệu Huy Cận lòng vấn vương về nỗi đau đời khát vọng cứu đời của người xưa. Trong niềm vui đổi đời, nhà thơ vô cùng cảm thông với ông cha những thế kỷ trước, càng tin tưởng tự hào về chế độ mới sẽ mang lại hạnh phúc cho toàn dân. Sau khổ thơ đầu nhập đề bằng những vấn vương, ám ảnh của nhân vật trữ tình về các pho tượng chùa tây Phương ,đến đoạn thơ này gồm 4 khổ thơ. Trong đó ba khổ đầu, mỗi khổ là một pho tượng hiện lên với những dáng vẻ, tư thế khác nhau tiêu biểu cho cả quần thể tượng.- Pho tượng La Hán thứ nhất là hiện thân của sự tích diệt đến khô gầy. Chân với tay chỉ còn lại “xương trần”. Tấm thân gầy như đã bị “thiêu đốt”. Mắt sâu thành “vòm” với cái nhìn “trầm ngêm đau khổ?”. Dáng ngồi tĩnh tọa bất động qua mấy ngàn năm:“Đây vị xương trần chân với tayCó chí thiêu đốt tấm thân gầyTrầm ngâm đau khổ sâu vòm mắtTự bấy ngồi y cho đến nay”.- Pho tượng La Hán thứ hai như chứa đựng biết bao vật vã, dằn vặt, đau khổ. Mắt thì “giương”, mày thì “nhíu xệch”. Trán như đang “nổi sóng biển luân hồi” vô cùng vô tận. Môi cong lên “chua chát”. Tâm hồn khô héo. Bàn tay “gân vặn”, mạch máu thì “sôi” lên. Các chi tiết nghệ thuật, những nét khắc, nét chạm bằng ngôn ngữ đã gợi tả vẻ dữ dội đầy ấn tượng: về một chân tu khổ hạnh:“Có vị mắt giương, mày nhíu xệchTrán như nổi sóng biển luân hồiMôi cong chua chát tâm hồn héoGân vặn bàn tay mạch máu sôi”- Pho tượng La Hán thứ ba rất dị hình. Ngồi trong tư thế “chân tay co xếp lại” chẳng khác nào chiếc thai non “tròn xoe”. Đôi tai rất kì dị “rộng dài ngang gối”. Vị tu hành này như suốt đời “nghe đủ chuyện buồn” của chúng sinh:“Có vị chân tay co xếp lạiTròn xoe tựa thể chiếc thai nonNhưng đôi tai rộng dài ngang gốiCả cuộc đời nghe đủ chuyện buồn”Tóm lại, phần đầu bài thơ rất đặc sắc. Nghệ thuật tả các pho tượng rất biến hoá, nét vẽ, nét tạc nào cũng sống động và có hồn. Tượng La Hán là những tĩnh vật, nhưng tượng nào cũng được tả trong những tư thế và cử chỉ khác nhau, với một cõi tâm linh sâu thẳm. Các vị La Hán như đi tìm phép nhiệm màu cứu nhân độ thế, đang vật vã trong bế tắc. Nhà thơ không chỉ phản ánh một xã hội quằn quại đau khổ trong những biến động và bế tắc không tìm được lối ra mà còn thể hiện một tinh thần nhân đạo đáng quý, trân trọng và cảm thông.Kết bài : Từ việc quan sát và miêu tả sắc sảo các pho tượng, đoạn thơ gợi lên những cảm nhận và suy tưởng sâu sắc về những khổ đau , bế tắc của cha ông trong quá khứ. Đoạn thơ bày tỏ niềm cảm thông sâu sắc với những cuộc đời cũ khi chưa tìm được lối ra.

File đính kèm:

  • docOn thi TN so 10.doc