Bồi dưỡng Cảm thụ văn họ cho học sinh giỏi Lớp 4,5
Bạn đang xem nội dung tài liệu Bồi dưỡng Cảm thụ văn họ cho học sinh giỏi Lớp 4,5, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Phần I: Đề bài Câu 1. Đoạn văn: “ Màu lúa chín dưới đồng vàng xuộm lại. Nắng nhạt ngả màu vàng hoe. Trong vườn, lắc lư những chùm xoan vàng lịm không trông thấy cuống như những chuỗi tràng hạt bồ đề treo lơ lửng. Từng chiếc lá mít vàng ối. Tàu đu đủ, chiếc lá sắn héo lại mở năm cánh vàng tươi. Buồng chuối đốm quả chín vàng. Những tàu lá chuối vàng ối xõa xuống như những đuôi áo, vạt áo. Nắng vườn chuối đương có gió lẫn với lá vàng như những vạt áo nắng, đuôi áo nắng vẫy vẫy Tất cả đượm một màu vàng trù phú, đầm ấm lạ thường”. (Quang cảnh làng mạc ngày mùa – Tô Hoài). Trong đoạn văn, chỉ bằng màu vàng nhưng tác giả đã vẽ nên một bức tranh quang cảnh làng mạc ngày mùa hết sức sinh động và hấp dẫn người đọc. Em hãy giải thích vì sao? Câu 2. Nêu cảm nhận của em về cái hay của biện pháp tu từ được sử dụng trong câu văn: “Những thân cây tràm vỏ trắng vươn lên trời, chẳng khác gì những cây nến khổng lồ, đầu lá rủ phất phơ”: Câu 3. Hãy cảm nhận về cái hay, cái đẹp của hai câu thơ sau: Trái đất ba phần tư nước mắt Đi như giọt lệ giữa không trung. (Xuân Diệu) Câu 4. Em hãy viết lên những cảm nghĩ của mình khi đọc song đoạn thơ: “Những vạt nương màu mật Lúa chín ngập trong thung Và tiếng nhạc ngựa rung Suốt triền rừng hoang dã”. (Phía trước cổng trời - Nguyễn Đình ảnh) Câu 5. Từ “vàng rợi” trong câu sau có thể thay bằng từ nào: “Chỉ có mấy vạt cỏ xanh biếc là rực lên giữa các giang sơn vàng rợi” của rừng khộp theo tưởng tượng của em trong một vài câu sau. Câu 6. Cho đoạn thơ sau: “Tiếng việt gợi trong hoàng hôn khói sẫm Cánh đồng xa cò trắng rủ nhau về Có con nghé trên lưng bùn ướt đẫm Nghe xào xạc gió thổi giữa cau tre Tiếng kéo gỗ nhọc nhằn trên bãi nắng Tiếng gọi đò sông vắng bên lau khuya Tiếng lụa xé đau lòng thoi sợi trắng Tiếng dập dồn nước lũ xoáy chân đê” (Tiếng Việt - Lưu Quang Vũ) a. Em hãy miêu tả lại bức tranh làng quê với những âm thanh, hình ảnh mà Tiếng Việt đã gợi nên. b. Nhận xét về những âm thanh và hình ảnh đó. Câu 7. Em hãy nêu tác dụng của việc sử dụng ba câu đơn liên tiếp trong đoạn văn: “Gió thơm. Cây cỏ thơm. Đất trời thơm”. Câu 8. Nêu cảm nhận của em về cái hay, cái đẹp của câu văn sau. “Dưới tầng đáy rừng, tựa như đột ngột, bỗng rực lên những chùm thảo quả đỏ chon chót, như chứa lửa, chứa nắng”. Câu 9. Có thể thay thế từ “bập bùng” trong hai câu thơ sau bằng từ nào: “ Tìm nơi thăm thẳm rừng sâu Bập bùng hoa chuối, trắng màu hoa ban”. Em hãy chỉ ra cái hay của từ “bập bùng”? Câu 10. Bông cúc là nắng làm hoa Bướm vàng là nắng bay xa, lượn vòng Lúa chín là nắng của đồng Trái thị, trái hồng là nắng của cây. (Lê Hồng Thiện) a. Cách cảm nhận về màu sắc thiên nhiên của tác giả ở đoạn thơ trên có gì độc đáo? b. Qua đó, em có suy nghĩ gì về tình cảm tác giả dành cho thiên nhiên? c. Viết đoạn văn bày tỏ cảm nghĩ của em về cái hay, cái đẹp ở đoạn thơ trên. Câu 11. Em hãy viết lên những cảm nghĩ của mình khi đọc xong đoạn thơ: Việt Nam đất nước ta ơi Mênh mông biển lúa đâu trời đẹp hơn Cánh cò bay lả rập rờn Mây mờ che đỉnh Trường Sơn sớm chiều. (Việt Nam thân yêu - Nguyễn Đình Thi) Câu 12. Điệp ngữ “Dưới bóng tre” trong đoạn văn sau có tác dụng gì? Dưới bóng tre của ngàn xưa, thấp thoáng mái đình, mái chùa cổ kính. Dưới bóng tre xanh, đã từ lâu đời, người dân cày Việt Nam dựng nhà, dựng cửa, vỡ ruộng khai hoang. (Cây tre Việt Nam - Thép mới) Câu 13. Em hãy trình bày những cảm nhận của em về hình ảnh: Ngôi nhà như trẻ nhỏ Lớn lên với trời xanh (Về với ngôi nhà đang xây - Đồng Xuân Lan) Câu 14. Em hãy cho biết, tiếng vọng để lại trong tâm trí của tác giả là gì? Đêm đêm tôi vừa chợp mắt Cánh cửa lại rung lên tiếng đập cánh Những quả trứng lại lăn vào giấc ngủ Tiếng lăn như đá lở trên ngàn. (Tiếng vọng - Nguyễn Quang Thiều) Câu 15. Cho đoạn thơ sau: “Em nghe thầy đọc bao ngày Tiếng thơ đỏ nắng xanh cây quanh nhà Mái chèo nghe vọng sông xa Êm êm nghe tiếng của bà năm xưa Nghe trăng thở động tàu dừa Rào rào nghe chuyển cơn mưa giữa trời” (Nghe thầy đọc thơ - Trần Đăng Khoa) Giọng đọc thơ của thầy là một giọng đọc như thế nào? Giọng đọc ấy đã gợi cho cậu trò nhỏ Đăng Khoa những hình ảnh nào đẹp đẽ? Nêu cái hay cái đẹp của mỗi hình ảnh đó. Câu 16. “Cha lại dắt con đi trên cát mịn ánh nắng chảy đầy vai Cha trầm ngâm nhìn mãi cuối chân trời. Con lại trỏ cánh buồm nói khẽ: Cha mượn cho con cánh buồm trắng nhé, Để con đi ” (Những cánh buồm - Hoàng Trung Thông) a. Hình ảnh ánh nắng được diễn tả qua câu thơ nào? Cách diễn tả ấy có gì độc đáo? b. Trong lời nói ngây thơ của người con, em cảm nhận được điều gì? Hãy bày tỏ suy nghĩ của em về điều đó. Câu 17. “ Dòng sông mới điệu làm sao Nắng lên mặc áo lụa đào thướt tha Trưa về trời rộng bao la áo xanh sông mặc như là mới may Chiều trôi thơ thẩn áng mây Cài lên màu áo hây hây ráng vàng Rèm thêu trước ngực vầng trăng Trên nền nhung tím trăm ngàn sao lên Khuya rồi sông mặc áo đen Nép trong rừng bưởi lặng yên đôi bờ Sáng ra thơm đến ngẩn ngơ Dòng sông đã mặc bao giờ áo hoa Ngước lên bỗng gặp la đà Ngàn hoa bưởi đã nở nhòa áo ai ” (Dòng sông mặc áo - Nguyễn Trọng Tạo) Câu 18. Cho bài ca dao: “Con cò mà đi ăn đêm Đậu phải cành mềm lộn cổ xuống ao Ông ơi ông vớt tôi nao Tôi có lòng nào ông hãy xáo măng Có xáo thì xáo nước trong Đừng xáo nước đục đau lòng cò con” (Ca dao) a. Tìm từ trái nghĩa trong bài ca dao trên. Theo em, những từ trái nghĩa đó còn ẩn chứa nét nghĩa nào khác? Bài ca dao đã khẳng định phẩm chất tốt đẹp nào của hình tượng “con cò”? b. Hãy tìm một số câu tục ngữ có nội dung gần gũi với bài ca dao. Câu 19. Trong bài “Khúc hát ru những em bé trên lưng mẹ”, nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm có viết: “Mặt trời của bắp thì nằm trên đồi Mặt trời của mẹ, em nằm trên lưng”. ý nghĩa của từ “mặt trời” trong hai câu thơ có gì khác nhau? Từ đó, em có cảm nhận gì về tình cảm mà người mẹ dành cho con nhỏ của mình? Câu 20. Khổ thơ sau sử dụng biện pháp tu từ nào? Nêu tác dụng của biện pháp tu từ đó. Mầm non vừa nghe thấy Vội bật chiếc vỏ rơi Nó đứng dậy giữa trời Khoác áo màu xanh biếc. (Mầm non - Võ Quảng) Câu 21. Cho đoạn thơ: “Mùa thu nay khác rồi Tôi đứng vui nghe giữa núi đồi Gió thổi rừng tre phấp phới Trời thu thay áo mới Trong biếc nói cười thiết tha” (Đất nước - Nguyễn Đình Thi) Niềm vui đất nước độc lập được thể hiện qua những từ ngữ và hình ảnh như thế nào? Câu 22. “ Dù giáp mặt cùng biển rộng Cửa sông chẳng dứt cội nguồn Lá xanh mỗi lần trôi xuống Bỗng nhớ một vùng núi non ” (Cửa sông - Quang Huy) a. Khổ thơ gợi cho em liên tưởng tới câu tục ngữ, thành ngữ nào? b. Qua đoạn thơ, em thấy cửa sông có những tình cảm, cảm xúc nào? Tình cảm ấy có gì đáng quý và đáng trân trọng? c. Cách diễn tả tình cảm trong đoạn thơ có gì sâu sắc? Câu 23. Cho đoạn văn: “Đất nước ta giàu đẹp, non sông ta gấm vóc, lịch sử dân tộc ta oanh liệt, vẻ vang. Bởi thế, mỗi người dân Việt Nam yêu nước dù có đi xa quê hương, xứ sở tới tận chân trời góc bể cũng vẫn luôn hướng về Tổ quốc thân yêu với niềm tự hào sâu sắc”. a. Xác định từ cùng nghĩa trong đoạn văn trên. Qua đó em có nhận xét gì về khả năng dùng từ ngữ của tác giả? b. Tìm từ láy có trong đoạn văn trên. Câu 24. “Đồng chiêm phả nắng lên không Cánh cò dẫn gió qua thung lúa vàng Gió nâng tiếng hát chói chang Long lanh lưỡi hái liếm ngang chân trời” (Tiếng hát mùa gặt - Nguyễn Duy) Đoạn thơ đã gợi cho em hình ảnh và cảm xúc nào? Cách miêu tả của tác giả có gì đặc sắc? Câu 25. “Rừng mơ ôm lấy núi Mây trắng đọng thành hoa Gió chiều đông gờn gợn Hương bay gần, bay xa.” (Rừng mơ - Trần Lê Văn) a. Những động tác từ đã góp phần miêu tả cảnh đẹp của rừng mơ thật sinh động. Em hãy viết ra những động từ đó. b. Theo em, động từ “đọng” có thể thay thế bằng động từ nào khác? Hãy so sánh cách dùng động từ “đọng” với những động từ vừa tìm được và rút ra nhận xét cách dùng từ nào hay hơn? Vì sao? Câu 26. Câu văn sau đây đã sử dụng biện pháp tu từ gì? Hãy nêu tác dụng của biện pháp tu từ đó: “Trong im lặng, hương vườn thoang thoảng bắt đầu rón rén bước ra và tung tăng trong ngọn gió nhẹ, nhảy trên cỏ, trườn theo những thân cành”. (Chiều tối - Phạm Đức) Câu 27. Chỉ còn tiếng đàn ngân nga Với một dòng trăng lấp loáng sông Đà. (Quang Huy) Hai câu thơ trên đã gợi nên cho em một bức tranh sông Đà dưới đêm trăng như thế nào? Hãy miêu tả lại bức tranh ấy theo hình dung của em trong một đoạn văn ngắn. Câu 28. Tuổi thơ trở đầy cổ tích Dòng sông lời mẹ du ngọt ngào Đưa con đi cùng đất nước Chòng chành nhịp võng ca dao. (Trong lời mẹ hát - Trương Nam Hương) Tuổi thơ của con thật kỳ diệu và trong sáng bởi con được sống trong ăm ắp lời du ngọt ngào của mẹ. Điều đó được thể hiện như thế nào trong đoạn thơ trên? Câu 29. Đọc mẩu chuyện sau: Tương truyền, thuở niên thiếu, Lí Bạch là cậu bé không chịu khó học hành mà ham chơi. Một hôm, cậu chán học, lẻn sang chơi ở chân núi phía Đông. Kì lạ quá! Trước mặt cậu bé là một bà lão đang cắm cúi mài một thanh sắt bên một tảng đá lớn. “Bà già tóc bạc đến nhường kia mà lại chăm chắm mài một thanh sắt để làm gì nhỉ?”, cậu bé hết sức phân vân, bèn rón rén đến bên cạnh bà già rồi cất tiếng hỏi: - Cụ ơi, cụ mài sắt để làm gì vậy? Bà lão ngẩng mặt lên, hiền từ trả lời: Để làm kim khâu cháu ạ! - Làm kim khâu ư? Thanh sắt thì làm thế nào mà trở thành kim khâu được. Cậu bé chất vấn bà lão. - Mài mãi cũng phải được. Kể có công mài sắt thì có ngày nên kim. Bà lão trả lời một cách tin tưởng như vậy. Lí Bạch nửa tin nửa ngờ hỏi lại: Liệu hôm nay có xong được không hở cụ? Bà lão thong thả trả lời hòa nhịp với động tác mài kim: Hôm nay không xong thì mai lại làm tiếp vậy, năm nay không xong thì năm sau lại tiếp tục mài, ngày lại qua ngày, già nhất định mài xong! Nghe đến đây, Lí Bạch chợt hiểu và im lặng. Về nhà, Lí Bạch thường ngẫm nghĩ lời bà lão mà chuyên tâm học hành. Sau đó, ông trở thành nhà thơ lớn của đời Đường được tôn lên làm “tiên thi” (ông tiên làm thơ). (Trích trong Kể chuyện thành ngữ, tục ngữ) Mẩu chuyện trên khiến em liên tưởng đến câu tục ngữ nào? Viết một đoạn văn ngắn (từ 5 - 7câu) có nội dung minh họa cho câu tục ngữ đó. Câu 30. Cảm nhận của em về cái hay, cái đẹp của hai hình ảnh so sánh: a. Biển lặng, đỏ đục, đầy như một mâm bánh đúc, loáng thoáng những con thuyền như những hạt lạc ai đem rắc lên trên. b. Những cánh buồm ra khỏi cơn mưa, ướt đẫm, thẫm lại, khỏe nhẹ, bồi hồi như ngực áo bác nông dân cày xong thửa ruộng về bị ướt. Câu 31. Hãy nêu cảm nhận của em về cái hay của những câu thơ sau: Và se sẽ bước nhỏ Mùa thu đến nhà em Nắng mắc võng qua thềm Bưởi đánh đu ngoài ngõ. (Mùa thu - Mai Văn Hai) Câu 32. Nêu cảm nhận của em về cái hay của hình ảnh so sánh: “Người xưa đã ví cửa Tùng giống như một chiếc lược đồi mồi cài vào mái tóc bạch kim của sóng biển”. Câu 33. Trong đoạn thơ, em thích nhất hình ảnh nào? Đoạn thơ sau gợi cho em những cảm xúc gì về mẹ thân yêu? Thời gian chạy qua tóc mẹ Một màu trắng đến nôn nao Lưng mẹ cứ còng dần xuống Cho con ngày một thêm cao. (Trong lời mẹ hát - Trương Nam Hương) Câu 34. Quê hương là chùm khế ngọt Cho con chèo hái mỗi ngày Quê hương là đường đi học Con về rợp bướm vàng bay. (Quê hương - Đỗ Trung Quân) Đoạn thơ sử dụng biện pháp tu từ nào? Hình ảnh quê hương hiện lên có gì gần gũi, thân thương? Câu 35. Là cửa nhưng không then khóa Cũng không khép lại bao giờ Mênh mông một vùng sóng nước Mở ra bao nỗi đợi chờ. (Cửa sông - Quang Duy) Những liên tưởng thú vị về cửa sông luôn được soi chiếu với hình ảnh nào? Từ đó, em thấy cửa sông có gì đẹp? Câu 36. Cách sử dụng biện pháp nhân hóa có tác dụng như thế nào trong việc miêu tả âm thanh của tiếng chim trong đoạn thơ sau: Tiếng chim lay động lá cành Tiếng chim đánh thức chồi xanh dậy cùng Tiếng chim vỗ cánh bầy ong Tiếng chim tha nắng rải đồng vàng thơm (Tiếng chim buổi sáng - Định Hải) Câu 37. Nêu cảm nhận của em về cái hay, cái đẹp của đoạn thơ: “Nắng vườn trưa mênh mông Bướm bay như lời hát Con tàu là đất nước Đưa em tới bến xa”. (Ngày em vào Đội - Xuân Quỳnh) Câu 38. Hình ảnh chợ Tết trong đoạn thơ được miêu tả sinh động như thế nào? Người các ấp tưng bừng ra chợ Tết Họ vui vẻ kéo hàng trên cỏ biếc Những thằng cu áo đỏ chạy lon xon Vài cụ già chống gậy bước lom khom Cô yếm thắm che môi cười lặng lẽ Thằng em bé nép đầu bên yếm mẹ Hai người thôn gánh lợn chạy đi đầu Con bò vàng ngộ nghĩnh đuổi theo sau. (Chợ Tết - Đoàn Văn Cừ) Phần II: Gợi ý Câu 1. Trong đoạn văn, chỉ với màu vàng nhưng tác giả đã vẽ lên một bức tranh quang cảnh làng mạc ngày mùa hết sức sôi động và hấp dẫn người đọc bởi vì mỗi màu vàng đều được tác giả miêu tả bằng những sắc độ khác nhau phản ánh đúng đặc điểm của mỗi sự vật ở làng quê. Qua đó, ta thấy được sự phong phú và đa dạng của màu sắc ở làng quê và tấm lòng yêu và gắn bó sâu sắc với quê hương của tác giả. Câu 2. - Đây là một biện pháp so sánh hay và độc đáo. - Hình ảnh so sánh rất đẹp, “chẳng khác gì những cây nến khổng lồ”. - Qua hình ảnh so sánh đó, tác đã gợi tả được hình ảnh sinh động, ngay thẳng, đầy sức sống của những thân cây tràm. Câu 3. Câu thơ đã sử dụng phép tu từ so sánh để tạo nên một hình ảnh rất độc đáo ấn tượng. Trái đất là một hình ảnh rộng lớn, trừu tượng bỗng trở nên hữu hình cụ thể và sinh động hơn qua hình ảnh so sánh đó. Qua đó, ta thấy, Trái Đất hiện lên với vẻ đẹp trong sáng, tươi đẹp. Ta nghĩ đến trách nhiệm của mình phải bảo vệ vẻ đẹp đó. Câu 4. “Những vạt nương màu mật Lúa chín ngập trong thung Và tiếng nhạc ngựa rung Suốt triền rừng hoang dã”. (Phía trước cổng trời - Nguyễn Đình ảnh) Chỉ bằng bốn câu thơ nhưng tác giả đã miêu tả được một bức tranh tương đối hoàn chỉnh về vẻ đẹp của phía trước cổng trời với không gian trải rộng (của triền rừng, của vạt nương, của thung lúa), với màu sắc ấp ủ lên hương (màu mật, màu lúa chín) và vang vang trong đó là một không gian rất đặc trưng và quen thuộc của vùng núi rừng (tiếng nhạc ngựa rung). Bức tranh tĩnh lặng nhưng ẩn chứa một sức sống nội lực, một vẻ đẹp lắng sâu, tinh tế Câu 5. Từ “vàng rợi” trong câu: “Chỉ có mấy vạt cỏ xanh biếc là rực lên giữa cái giang sơn vàng rợi” có thể thay bằng những từ sau: vàng rực, vàng óng, vàng ối Hãy miêu tả lại “cái giang sơn vàng rợi” của rừng khộp theo tưởng tượng của em trong một vài câu văn: “Rừng khộp hiện lên như một giang sơn vàng rợi trước mắt chúng tôi. Màu vàng của những chiếc lá khộp sáng trên cành cây, óng trên những lối đi. Màu vàng của nắng hòa màu lá tạo nên một bức tranh tươi tắn. Thỉnh thoảng, lại nhìn thấy những đốm vàng đang di động, chạy nhảy. ấy chính là những chú nai vàng ngơ ngác. Quang cảnh rừng thật sinh động và ấm áp biết bao!”. Câu 6. Gợi ý: a) Làng quê Việt Nam hiện lên như một bức tranh đa dạng màu thanh, màu sắc. Trong bóng hoàng hôn tím sẫm, những cánh cò trắng muốt như đang chuyên chở ráng chiều bay. Những chú nghé tắm mát xong lưng bùn còn ướt đẫm. Thoảng đâu đây tiếng gió xào xạc trên cầu tre, tiếng thoi đưa xé lụa. Âm vang trong không gian là tiếng gỗ nhọc nhằn trưa vắng. b) Nhận xét về những âm thanh và hình ảnh: đó là những hình ảnh và âm thanh thân thuộc của làng quê Việt Nam. Nó gợi lên vẻ đẹp bình dị và sự gắn bó, yêu mến đến mức máu thịt của tác giả với quê hương. Câu 7. Tác dụng của việc sử dụng ba câu đơn liên tiếp trong đoạn văn “Gió thơm. Đất trời thơm”. - Làm cho câu văn trở nên có nhạc điều quyến luyến, bay bổng. - Diễn tả được hương thơm của thảo quá đã bao trùm khắp không gian rộng lớn từ đất trời thiên nhiên cho đến thôn xóm con người. Hơn thế nữa ta còn cảm nhận được độ nồng nàn, đậm đặc của hương thơm ấy khi nó nhuốm hương lên tất cả. Câu 8. Gợi ý: - Câu văn sử dụng những hình ảnh so sánh bất ngờ, thú vị. Màu đỏ “cho chót” của thảo quả thật rực rỡ. Màu đỏ ấy như chứa cả sức nóng của lửa, chứa cả sự tươi mới lộng lẫy của của nắng. Nó là vẻ đẹp tinh túy của thiên nhiên. - Từ “rực lên” được đảo lên đầu câu nhấn mạnh được sự xuất hiện đột ngột, kỳ diệu và sắc đỏ tươi tắn của thảo quả. - ẩn đằng sau câu văn là cái nhìn say mê, bất ngờ của tác giả trước vẻ đẹp của thảo quả. (“tựa như đột ngột”). Câu 9. Có thể thay thế từ “bập bùng” trong hai câu thơ sau bằng từ “đỏ tươi”: “Tìm nơi thăm thẳm rừng sâu Bập bùng hoa chuối, trắng màu hoa ban” Cái hay của từ “bập bùng” là: + Đây là từ láy thường để miêu tả ánh lửa. Do đó dùng từ bập bùng, tác giả đã ngầm so sánh bông hoa chuối đẹp như hình ảnh của một ngọn lửa. + Bởi thế, nó vừa miêu tả được sắc màu tươi tắn của hoa chuối nổi bật giữa núi rừng thăm thẳm, vừa miêu tả được sự lay động của hoa chuối. Hoa chuối như một ngọn lửa ẩn mmình chốn rừng sâu mà chỉ những chú ong chăm chỉ, cần cù mới tìm được. Câu 10. Bông cúc là nắng làm hoa Bướm vàng là nắng bay xa, lượn vòng Lúa chín là nắng của đồng Trái thị, trái hồng là nắng của cây. (Lê Hồng Thiện) a) Cách cảm nhận về màu sắc thiên nhiên của tác giả ở đoạn thơ trên độc đáo ở chỗ: + Còng cảm nhận về nắng nhưng tác giả đã nhìn ra những sắc nắng khác nhau từ thiên nhiên được ủ trong bông cúc, bướm vàng, lúa chín, trái thị, trái hồng thông qua một loạt các biện pháp tu từ so sánh. + Như vậy, nắng hiện lên với vẻ đẹp khác nhau: nắng ủ trong sắc màu của hoa, nắng ủ trong trái chín. Nắng gần gũi và tỏa ấm cho cuộc sống con người và con người cũng đang tạo ra nắng. b) Qua đó, em thấy được tình cảm của tác giả dành cho thiên nhiên là tình cảm yêu mến, say mê. Câu 11. Gợi ý: - Đoạn thơ đã nêu cảm nhận của tác giả về vẻ đẹp của Việt Nam thông qua một loạt các từ láy: “mênh mông”, “rập rờn”. Đó là hình ảnh quê hương mang vẻ đẹp trù phú, thơ mộng với những cánh đồng lúa bao la, những cánh cò mềm mại trắng muốt bay lượn. Đóa là hình ảnh đỉnh núi lắng sâu trong sương mờ. Tất cả gợi nên vẻ đẹp thanh bình, mộng mơ của quê hương. - Qua đó gửi gắm niềm tự hào, yêu mến thiết tha của tác giả. Câu 12. Gợi ý: Điệp ngữ “Dưới bóng tre” trong đoạn văn trên nói lên sự gắn bó của tre với người dân Việt Nam. Bóng tre đã bao trùm, chở che cho cuộc sống của người dân từ xưa và mọi sinh hoạt của con người đều diễn ra dưới bóng tre. Bóng tre là người bạn thân thiết, là nơi lưu giữ những truyền thống văn hóa lâu đời của cha ông. Câu 13. Gợi ý: - Đây là hình ảnh so sánh hết sức độc đáo. So sánh “ngôi nhà” với “trẻ nhỏ”, trên cơ sở nét tương đồng: chúng lớn lên cùng trời xanh. Ngôi nhà đang được xây dựng vươn lên cao mài. Trẻ nhỏ được nuôi dưỡng dần cũng lớn khôn. Hình ảnh so sánh xuất phát từ cái nhìn của trẻ thơ: ngộ nghĩnh, hồn nhiên. Câu 14. Gợi ý: Tiếng vọng để lại trong tâm trí của tác giả là: - Sự ám ảnh về cái chết của con chim sẻ nhỏ. - Sự hối hận vì mình đã không giúp nó. Câu 15. Giọng thơ của thầy giáo hẳn phải diễn cảm lắm! Giọng đọc ấy lúc trầm lúc bổng, lúc thiết tha, nhẹ nhàng, lúc mạnh mẽ như một bản nhạc vậy. (đỏ nắng – xanh cây, vọng, êm êm, rào rào). - Giọng đọc ấy đã khơi lên trong cậu học trò nhỏ những hình ảnh thân thuộc mà cũng hết sức thú vị, hấp dẫn của cuộc sống. - Nghe thầy đọc thơ, cả một không gian thân thuộc của gian nhà như đang có sự chuyển mình kì diệu. Cây thêm xanh mượt, nắng thêm lung linh (đỏ nắng). Bức tranh thiên nhiên có sắc đỏ rực rỡ, nóng bỏng và có cả sắc xanh dịu dàng, mát mắt. Hai sắc màu ấy hài hòa, tôn vinh nhau tạo cho bức tranh sự sinh động và lôi cuốn. - Nghe thầy đọc thơ, tưởng như con sông quê đang êm đềm chảy trước mắt. Trền con sông quê, những con thuyền khua mái chèo khuấy động mặt nước yên tĩnh. Tiếng nước càng làm tăng thêm vẻ thanh bình của chốn quê hương. Nghe thầy đọc thơ, bao kỉ niệm về người bà thân yêu ùa về. Ôi nhớ xiết bao giọng nói êm êm của bà! - Sang đến câu thơ sau, không gian thời gian chuyển một cách bất ngờ, tự nhiên mà thú vị (đêm: Nghe trăng thở động tàu dừa → cơn mưa rào mạnh mẽ:Rào rào nghe chhuyển cơn mưa giữa trời. ). Nghe thầy đọc thơ mà cả một không gian trữ tình hiện ra trước mắt. Biện pháp nhân hóa khiến trăng hiện lên thật sống động. ánh trăng tỏa sáng lung linh, trăng trao nghiêng vệt sáng trên tàu dừa. Trăng đang thở? Trăng khiến cả tàu dừa rung rung. Cái chuyển động khẽ khàng ấy được thu gọn trong một từ rất đắt: “động”. Từ “động” giúp ta cảm nhận được sự sống đang chuhyển mmình trong vạn vật hữu linh. Nó giúp ta nhận ra những rung cảm tinh tế của cậu học trò nhỏ. - Câu thơ cuối bất ngờ, đột ngột, nhịp điệu nhanh mạnh như thể tính cách của mưa rào vậy. Câu thơ cũng là cao trào của cảm xúc. - Tiêng thơ của thầy đã khơi lên trong lòng cậu học trò những rung cảm tinh tế, giúp em biết yêu hơn cuộc sống xung quanh, yêu hơn những con người quê hương. Và với giọng đọc truyền cảm ấy, thầy giáo đã truyền tới học sinh tình yêu với quê hương, đất nước, đã nhen lên trong chúng nnhwngx mầm xanh thơ văn. - Qua bài thơ, ta thấy thần đồng thơ Trần Đăng Khoa là người có tâm hồn tinh tế, nhạy cảm và cũng hết sức trong sáng, có khả năng ngôn ngữ phong phú, linh hoạt. Câu 16. Gợi ý: “Cha lại dắt con đi trên cát mịn ánh nắng chảy đầy vai Cha trầm ngâm nhìn mãi cuối chân trời. Con lại trỏ cánh buồm nói khẽ: Cha mượn cho con cánh buồm trắng nhé, Để con đi ” (Những cánh buồm - Hoàng Trung Thông) a) Hình ảnh ánh nắng được diễn tả qua câu thơ “ánh nắng chảy đầy vai”. Cảnh diễn đạt ấy độc đáo. Bởi ánh nắng thường được cảm nhận qua mắt nhìn (thị giác). Trong câu thơ trên ánh nắng lại được cảm nhận qua đôi vai: “chảy đầy vai” (cảm xúc). Qua cách miêu tả đó, ánh nắng hiện ra thật mềm mại, dịu dàng, ánh nắng làm sáng lên vẻ đẹp của con người. b) Trong lời nói ngây thơ của người con, ta cảm nhận được một ước mơ râts trong sáng và thánh thiện. Ước mơ đó gắn liền với cánh buồm trắng, với khát vọng đi xa đến những chân trời mới. Đó cũng là ước mơ một tâm hồn trong trắng, ham hiểu biết, muốn khám phá những bí ẩn của thế giới. Chúng ta cần trân trọng, nâng niu và chắp cánh cho những ước mơ này. Câu 17. Gợi ý: “ Dòng sông mới điệu làm sao Nắng lên mặc áo lụa đào thướt tha Trưa về trời rộng bao la áo xanh sông mặc như là mới may Chiều trôi thơ thẩn áng mây Cài lên màu áo hây hây ráng vàng Rèm thêu trước ngực vầng trăng Trên nền nhung tím trăm ngàn sao lên Khuya rồi sông mặc áo đen Nép trong rừng bưởi lặng yên đôi bờ Sáng ra thơm đến ngẩn ngơ Dòng sông đã mặc bao giờ áo hoa Ngước lên bỗng gặp la đà Ngàn hoa bưởi đã nở nhòa áo ai ” (Dòng sông mặc áo - Nguyễn Trọng Tạo) Bài thơ sử dụng rộng rãi biện pháp nhân hóa. Những từ ngữ thường được dùng để miêu tả hành động, tính cách của con người được gắn cho dòng sông: điệu, mặc áo lụa đào, áo xanh.mặc cài lên màu áo, thêu trước ngực, nép, mặc áo hoa, mặc áo đen.Nhà thơ thật khéo léo sử dụng biện pháp nhân hóa khiến hình ảnh dòng sông hiện lên rất sinh động, phong phú và hấp dẫn. Nhan đề "Dòng sông mặc áo" rất hay, duyên dáng và nên thơ. Dòng sông được nhân hóa trở nên điệu đà, thích làm đẹp, làm duyên như thiếu nữ. Mỗi sự chuyển biến của thời gian trong ngày là một thời điểm để dòng sông diện một bộ áo quyến rũ. Dưới ánh nắng sáng hồng, tươi mới của buổi bình minh, dòng sông "mới" điệu làm sao trong tà áo dài thướt tha, mềm mại, và cũng ửng hồng đầy sức sống. Trưa về, dòng sông rộng bao la theo mây trời, sông kheo thêm chiếc áo xanh biếc, tươi sáng, mới mẻ. Khi hoàng hôn buông xuống cũng là lúc sông khoác lên mình màu áo hây hây ráng vàng như một tà áo lụa quý phái. Rồi khi màn đêm buông, dòng sông thoắt có y phục mới: chiếc áo tím có thêu vầng trăng trước ngực, có ngàn sao điểm tô lấp lánh. Dòng sông hiện lên với vẻ đẹp bí ẩn, kiêu sa đầy quyến rũ. Đêm về khuya, sông trở nên kín đáo, lặng lẽ "nép trong rừng bưởi" và giản dị trong chiếc áo màu đen. Và có lẽ, dòng sông về đêm cũng giống như mùa đông ẩn giấu sức sống vào bên trong những cành khô, để khi mùa xuân về, sức sống ấy mới trào lên thành những mầm non mơn mởn. Sáng sớm hôm sau, thật bất ngờ: Sáng ra thơm đến ngẩn ngơ Dòng sông đã mặc bao giờ áo hoa Ngước lên bỗng gặp là đà Ngàn hoa bưởi đã nở nhòa áo ai". Có lẽ dòng sông duyên dáng và làm ngất ngây tâm hồn người đọc nhất là hình ảnh dòng sông vào buổi sáng nay. Cái đẹp đến thật bất ngờ, đầu tiên nó làm ta "ngẩn ngơ" bởi hương thơm nồng nàn, nguyên khiết. Và rồi nàng thiếu nữ dòng sông hiện ra rạng ngời, thánh thiện và đầy sức sống. Chiếc áo nangd diện mới kì diệu làm sao! Nó được ủ hương từ hoa bưởi và nó được dệt nên từ những bông hoa bưởi trắng ngần. Ta như đứng trước một dòng sông cổ tích: Đẹp lắm em ơi! Con sông Ngàn Phố Trắng cả đôi bờ hoa bưởi trắng phau. Bài thơ "Dòng sông mặc áo" đã thể hiện cách quan sát, miêu tả sinh động của tác giả rất chính xác, tinh tế. Qua đó, ta thấy được tình yêu thắm thiết của tác giả dành cho dòng sông quê hương mình. Câu 18. Cho bài ca dao: "Con cò mà đi ăn đêm Đậu phải cành mềm lộn cổ xuống ao Ông ơi ông vớt tôi nao Tôi có lòng nào ông hãy xáo măng Có xáo thì xáo nước trong Đừng xáo nước đục đau lòng cò con". a) Từ trái nghĩa trong bài ca dao trên là: trong và đục. "Trong": Tinh khiết, không có gợn, mắt thường có thể nhìn thấu qua được, ở đây không dừng lại ở việc chỉ tính chất, màu nước mà nó còn để chỉ phẩm chất trong sán
File đính kèm:
- Boi duong Cam thu van hoc cho HSG lop 45.doc