Cảm hứng nhân đạo trong thơ trung đại Việt Nam

pdf2 trang | Chia sẻ: dethi | Lượt xem: 1319 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Cảm hứng nhân đạo trong thơ trung đại Việt Nam, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Cảm hứng nhân đạo trong thơ trung đại Việt Nam 
 
Bài làm 
 
Văn học trung đại Việt Nam trải qua mười hai thế kỉ từ thế kỉ Xuân Hương đến hết thế kỉ XIX. Đây là 
thời kì dân tộc ta đã thoát khỏi ách thống trị nặng nề của phong kiến phương Bắc hơn một ngàn năm. 
Nền văn học trung đại Việt Nam gắn liền với quá trình đấu tranh dựng nước và giữ nước của dân 
tộc. Về nội dung văn học thời kỳ này mang hai đặc điểm lớn đó là: Cảm hứng yêu nước và cảm hứng 
nhân đạo. Cảm hứng yêu nước và cảm hứng nhân đạo thực ra không hoàn toàn tách biệt nhau. Bởi 
yêu nước cũng là phương diện cơ bản của nhân đạo. 
 
Tuy vậy cảm hứng nhân đạo cũng có những đặc điểm riêng. Nó bao gồm những nguyên tắc đạo lí 
làm người, những thái độ đối xử tốt lành trong các mối quan hệ giữa con người với nhau, những khát 
vọng sống, khát vọng về hạnh phúc. Đó còn là tấm lòng cảm thương cho mọi kiếp người đau khổ, 
đặc biệt là với trẻ em, với phụ nữ và những người lương thiện bị hãm hại, những người hồng nhan 
mà bạc mệnh, những người tài hoa mà lận đận…Những nội dung nhân đạo đó đã được thể hiện ở 
trong toàn bộ văn học trung đại, những biểu hiện tập trung nhất là ở trong các tác phẩm văn học nửa 
sau thế kỉ XVIII và nửa đầu thế kỉ XIX, đặc biệt là trong những tác phẩm thơ. 
 
Nội dung cảm hứng nhân đạo của văn học trung đại có ảnh hưởng sâu sắc từ tư tưởng từ bi bác ái 
của đạo phật và học thuyết nhân nghĩa của đạo Nho. 
 
Trong thơ trung đại Việt Nam có thể kể ra rất nhiều những tác phẩm mang nội dung nhân đạo như: 
Bình ngô đại cáo của Nguyễn Trãi, Truyện Kiều của Nguyễn Du, Cung oán ngâm khúc của Nguyễn 
Gia Thiều, Chinh phụ ngâm của Đặng Trần Côn, Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc của Nguyễn Đình 
Chiểu,... Trong Bình ngô đại cáo của Nguyễn Trãi đó là tư tưởng nhân nghĩa gắn liền với tư tưởng 
yêu nước và độc lập tự do của Tổ quốc. 
 
Từng nghe: 
 
Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân 
Quân điếu phạt trước lo trừ bạo. 
Nhà nước Đại Việt ta từ trước 
Vốn xưng nền văn hiến đã lâu. 
 
Trước hết đó là tấm lòng cảm thông của tác giả dành cho những con người nhỏ bé bất hạnh trong xã 
hội đã bị bọn giặc ngoại xâm đàn áp dã man: 
 
Nướng dân đen lên ngọn lửa hung tàn 
Vùi con đỏ xuống dưới hầm tai vạ. 
 
Ở Truyện Kiều của Nguyễn Du, Cung oán ngâm khúc của Nguyền Gia Thiều đó là việc lên án chế độ 
phong kiến chà đạp lên quyền sống cảu người phụ nữ, lên những số phận tài hoa. Xã hội đó đã tước 
đoạt đi những quyền sống thiêng liêng mà lẽ ra con người phải có. Đặc biệt các tác giả nói lên tiếng 
nói bênh vực người phụ nữ những người chịu nhiều thiệt thòi trong xã hội. 
 
Không chỉ lên tiếng đòi quyền sống, quyền hạnh phúc cho con người mà các tác giả còn cất lên tiếng 
nói nhân đạo phản đối những cuộc chiến tranh phi nghĩa đã cướp đoạt đi những quyền sống thiêng 
liêng mà lẽ ra con người phải có. Đặc biệt các tác giả nói lên tiếng nói bênh vực người phụ nữ những 
người chịu nhiều thiệt thòi trong xã hội. 
 
Không chỉ lên tiếng đòi quyền sống, quyền hạnh phúc cho con người mà các tác giả còn cất lên tiếng 
nói nhân đạo phản đối những cuộc chiến tranh phi nghĩa đã cướp đi biết bao nhiêu cảnh sống yên 
vui, chia lìa bao nhiêu đôi lứa. Qua lời của người chinh phụ trong tác phẩm Chinh phụ ngâm - Đặng 
Trần Côn muốn lên án cuộc chiến tranh phong kiến phi nghĩa đó là nỗi nhớ người chồng nơi chiến 
trường gian khổ. 
 
Buồn rầu nói chẳng nên lời 
Hoa đèn kia với bóng người khá thương. 
Gà eo éc gáy sương năm trống 
Hòe phất phơ rủ bóng bốn bên 
Khắc giờ đằng đẵng như niên 
Nỗi sầu dằng dặc tựa miền biển xa. 
 
Những cuộc chiến tranh này thực chất chỉ là việc tranh quyền đoạt lợi của các tập đoàn phong kiến 
và phủ lên nó là một bầu trời đầy tang thương. Thế lực đồng tiền cũng đã phủ mờ đi những nét 
truyền thống tốt đẹp của xã hội đó là với trường hợp nàng Kiều. Trong xã hội trung đại, thế lực đồng 
tiền cũng rất đáng lên án vì nó đã vùi lấp và nhấn chìm đi biết bao những con người tài hoa, những 
con người có khát vọng hoài bão lớn muốn đem sức lực nhỏ bé của mình cống hiến cho sự nghiệp 
của dân tộc. 
 
Văn học trung đại đã chứng minh cho tinh thần nhân đạo cao cả của dân tộc Việt Nam. Đó là một 
dân tộc có những truyền thống tốt đẹp. Quay trở lại với bài Đại cáo bình Ngô sau khi đánh thắng 
quân xâm lược nhà Minh, quân và dân ta đã mở đường hiếu sinh cho kẻ thù chứ không phải đuổi 
cùng giết tận, việc làm nhân đạo đó chẳng những đã thể hiện tinh thần nhân đạo cao cả của dân tộc 
mà còn thể hiện niềm khát vọng được sống trong hòa bình của nhân dân. 
 
Nhìn chung cảm hứng nhân đạo trong thơ trung đại chủ yếu được thể hiện qua những nét chủ yếu 
sau: 
 
Trước hết đó là tiếng nói của tác giả, đó là tình cảm của tác giả dành cho những con người nhỏ bé 
chịu nhiều thệit thòi trong xã hội qua đó mà đòi quyền sống, quyền hạnh phúc cho họ, có được tình 
cảm như vậy, các tác giả thơ thời kì này mới viết được những dòng thơ, trang thơ xúc động đến như 
thế. 
 
Thơ trung đại còn thể hiện ở tiếng nói bênh vực giữa con người với con người, đề cao tình bạn, tình 
anh em, tình cha con, thể hiện mong muốn được sống trong hòa bình. 
 
Thơ trung đại đã thể hiện bước đi vững chắc của mình trong hơn mười thế kỉ, đó là sự tiếp nối bước 
đi của nền văn học dân gian. Tuy văn học dân gian thời kì này vẫn phát triển nhưng dấu ấn không 
còn như trước. Thơ trung đại đã thể hiện những truyền thống tốt đẹp của dân tộc đó là chủ nghĩa yêu 
nước và tinh thần nhân đạo qua đó mà làm tiền đề cho sự phát triển văn học các thời kì tiếp theo. 

File đính kèm:

  • pdfV.Cam-hung-nhan-dao-trong-tho-trung-dai-Viet-Nam.NLS.pdf