Chủ đề: Giúp học sinh lớp 10 rèn kĩ năng làm văn thuyết minh
Bạn đang xem nội dung tài liệu Chủ đề: Giúp học sinh lớp 10 rèn kĩ năng làm văn thuyết minh, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Giới thiệu về ca dao Việt Nam. I. Mở bài Ca dao ra đời từ rất sớm và lưu truyền cho đến ngày nay. Ca dao đã thấm vào ta qua những làn điệu quê hương gần gũi, thân quen. Nhà thơ Nguyễn Duy giãi bày niềm xúc cảm của mình: Ta đi trọn kiếp con người Cũng không đi hết mấy lời mẹ ru. Cũng với lời thơ tha thiết, nhà thơ Vũ Quần Phương viết: Mai này con lớn con khôn Chân đi muôn dặm - con còn nghe ru Những lời ru thắm thiết, đậm chất trữ tình trên chính là ca dao. II. Thân bài 1. Định nghĩa. Ca dao là một trong những thể loại chủ yếu của nền văn học dân gian Việt Nam. Đó là những sáng tác trữ tình dân gian diễn tả đời sống nội tâm của con người. Ca dao là nguồn sữa tinh thần nuôi dưỡng trẻ thơ qua lời hát ru, là hình thức trò chuyện tâm tình của các chàng trai cô gái, là tiếng nói biết ơn, tự hào về công đức của tổ tiên và anh linh của những người đã khuất, là phương tiện bộc lộ nỗi tức giận hay lòng hân hoan của người lao động, trong gia đình, xã hội. Dựa vào cung bậc tình cảm ấy ca dao được chia làm 3 loại. 2. Phân loại và nội dung. 2.1. Là tiếng hát yêu thương, tình nghĩa, ca dao bộc lộ tình sâu nghĩa nặng đối với xóm làng, quê hương, đất nước, đối với cha mẹ, vợ chồng, con cái, bạn bè và dạt dào nhất là tình cảm lứa đôi. Trong suốt chiều dài lịch sử, khắp chiều rộng không gian đất nước, đâu đâu cũng đều vang lên những câu ca về cảnh núi rừng hùng vĩ, cảnh non xanh nước biếc, những sản vật phong phú của mỗi miền: Sâu nhất là sông Bạch Đằng Ba lần giặc đến, ba lần giặc tan Cao nhất là núi Lam Sơn Có ông Lê Lợi trong ngàn tiến ra. Ai về Phú Thọ cùng ta Vui ngày giỗ tổ tháng ba mùng mười Dù ai đi ngược về xuôi Nhớ ngày giỗ tổ mùng mười tháng ba. Hội An bán gấm, bán điều Khiêm Bồng bán vải, Trà Nhiêu bán hàng Lụa này thật lụa Cố Đô Chính tông lụa cống các cô hay dùng Ca dao nói về tình cảm gia đình, tình yêu lứa đôi rất trong sáng, hồn nhiên, tha thiết: Con người có tổ có tông Như cây có cội như sông có nguồn. Công cha như núi Thái Sơn Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra Một lòng thờ mẹ kính cha Cho tròn chữ hiếu mới là đạo con. Mẹ già như chuối ba hương Như xôi nếp một, như đường mía lau. Mỗi đêm thắp một đèn trời Cầu cho cha mẹ ở đời với con. Yêu nhau cởi áo cho nhau Về nhà dối mẹ qua cầu gió bay. Đôi ta như thể con ong Con quấn, con quýt, con trong, con ngoài. Trong ca dao yêu thương, tình nghĩa hiện lên hình ảnh con người Việt Nam lạc quan, yêu đời, cần cù trong lao động, dũng cảm trong đấu tranh, nhân ái, vị tha, giàu đức hi sinh trong quan hệ giữa người với người... Ca dao thể hiện những phẩm chất tốt đẹp đó của người Việt Nam và hướng con người Việt Nam đến cái chân, cái thiện, cái mĩ trong cuộc sống. 2.2. Ca dao than thân ra đời từ cuộc sống làm ăn vất vả, cực nhọc và bị áp bức nặng nề của người dân trong xã hội cũ. Ca dao than cho cảnh đè nén, áp bức: Thương thay thân phận con rùa Lên đình đội hạc, xuống chùa đội bia. Đặc biệt là tiếng than của người phụ nữ chịu nhiều bất công do chế độ nam quyền và lễ giáo phong kiến gây ra: Thân em như tấm lụa đào Phất phơ giữa chợ biết vào tay ai. Thân em như củ ấu gai Ruột trong thì trắng, vỏ ngoài thì đen Ai ơi nếm thử mà xem Nếm xong mới biết rằng em ngọt bùi. Cảnh tảo hôn, đa thê, gả bán, ...: Vợ lẽ như giẻ chùi chân Chùi xong lại vứt ra sân Gọi ông hàng xóm có chùi chân thì chùi. Bồng bồng cõng chồng đi chơi Đi qua chỗ lội đánh rơi mất chồng. Chị em ơi, cho tôi mượn gàu sòng Để tôi tát nước vớt chồng tôi lên. Than mà phản kháng, người dân lao động khi khổ thì cất tiếng than nhưng không bao giờ để mất niềm tin. Chớ than phận khó ai ơi Còn da lông mọc, còn chồi nảy cây. Bao giờ dân nổi can qua Con vua thất thế lại ra quét chùa. 2.3. Ca dao hài hước châm biếm: Cùng với truyện cười, vè sinh hoạt, ca dao hài hước châm biếm đã thể hiện tập trung các nét đặc sắc của nghệ thuật trào lộng dân gian Việt Nam nhằm tạo ra tiếng cười mua vui, giải trí, phê phán những thói hư tật xấu hay những người đáng cười trong xã hội: Ăn thì ăn những miếng ngon Làm thì chọn việc cỏn con mà làm. Cái cò là cái là quăm Mày hay đánh vợ tối nằm với ai Cái cò là cái cò kì Ăn cơm nhà dì, uống nước nhà cô. Làm trai cho đáng nên trai Khom lưng chống gối gánh hai hạt vừng. 3.Nghệ thuật Ca dao phong phú trong cách cấu tứ và xây dựng hình tượng. Thể loại được dùng nhiều trong ca dao là thể lục bát, song thất lục bát và các thể vãn. Mỗi bài ca dao thường có hai dòng thơ lục bát nên kết cấu đơn giản, ngắn gọn. Sức hấp dẫn ở ca dao là ở âm điệu, vừa phong phú, vừa thanh thoát và ở lời ca dao giàu hình ảnh. Biện pháp nghệ thuật ẩn dụ, so sánh, nói quá,... tạo ra những hình ảnh gợi cảm, mở rộng trường liên tưởng sâu xa: Đôi ta thương mãi nhớ lâu Như sông nhớ nước, như dâu nhớ tằm. Đôi ta như lửa mới nhen Như trăng mới mọc, như đèn mới khêu. Đường xa thì mặc đường xa Nhờ mình làm mối cho ta một người Một người mười tám đôi mươi Một người vừa đẹp, vừa tươi như mình Nghệ thuật so sánh ví von đã tạo nên những hình ảnh truyền thống độc đáo trong ca dao: cây đa - bến nước - con đò; trúc - mai, con cò, chiếc cầu, ... Cái cò đi đón cơn mưa Tối tăm mù mịt ai đưa cò về. Cây đa cũ, bến đò xưa Bộ hành có nghĩa, nắng mưa cũng chờ. Ước gì sông rộng một gang Bắc cầu dải yếm cho chàng sang chơi. Có thể nói ca dao dùng lời ăn tiếng nói của nhân dân để chuyển tải tâm tư, tình cảm của nhân dân. III. Kết bài Chúng ta đã đi qua hành trình ca dao Việt Nam đẹp đẽ, để rồi ca dao vẫn khắc dấu trong tâm hồn mỗi chúng ta. Phải biết yêu câu ca dao, thương lời ru của mẹ, hát những khúc dân ca chân chất, ngọt ngào để thêm yêu Tổ quốc mình, để vươn ra văn hoá toàn cầu mà giữ vững bản sắc dân tộc Việt. ---------- HẾT ----------
File đính kèm:
- gioithieucadaoVN lop 10.doc