Chuyên đề Ảnh hưởng chủ nghĩa tượng trưng trong thơ mới

doc16 trang | Chia sẻ: dethi | Lượt xem: 2606 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Chuyên đề Ảnh hưởng chủ nghĩa tượng trưng trong thơ mới, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
 ỦY BAN NHÂN DÂN TỈNH PHÚ YÊN
SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO 
----- – & — -----



 
 

 ẢNH HƯỞNG 
CHỦ NGHĨA TƯỢNG TRƯNG 
TRONG THƠ MỚI 



















Người thực hiện: ĐẶNG THỊ HỒØNG ĐÀO
Đơn vị: TRƯỜNG THPT CHUYÊN LƯƠNG VĂN CHÁNH 






2008

 
Phần mở đầu

 Vào những năm 60-70 của thế kỷ XIX văn học Pháp bàng hồng trước sự xuất hiện của trào lưu thơ tượng trưng gây nên cơn địa chấn làm lay động thi đàn. Những thi tài như Charles Baudelaire, Paul Varlaire, Arthur Rimbaud,…đã tập hợp một lực lượng nhà thơ trẻ cùng giương cao ngọn cờ tượng trưng chủ nghĩa. Chủ nghĩa tượng trưng khơng chỉ gieo mầm, nở hoa kết trái trên mảnh đất văn học mà cịn mở rộng địa hạt sang các lĩnh vực như sân khấu, hội họa, âm nhạc, trở thành hiện tượng văn hĩa trên tồn Châu Âu. Bước sang thế kỷ XX, chủ nghĩa tượng trưng đã lan tỏa, tìm được một vị thế của mình trong thơ ca hiện đại phương Đơng trong đĩ cĩ Việt Nam.
Ảnh hưởng là một quy luật phổ biến trong giao lưu văn hĩa. Trong văn học, việc tiếp nhận và tiếp biến những yếu tố bên ngồi là điều khơng thể thiếu để phát triển. Bằng một cuộc cách mạng, Thơ mới Việt Nam (1932-1945) đã đi vào quỹ đạo hiện đại, làm bừng nở một vườn thơ dậy cả sắc hương. Nơi đây, hội tụ những tinh hoa văn hĩa Đơng - Tây trong cốt cách, tâm hồn việt. Đĩ là những thành quả của những năm tháng cách tân, vun trồng khơng nghỉ và sáng tạo của người nghệ sĩ. Chưa bao giờ thấy thi ca nở rộ nhiều khuynh hướng như: trường thơ loạn của Hàn Mạc Tử, Chế Lan Viên, trường thơ tượng trưng của Bích Khê…Trong quá trình tiếp biến chủ nghĩa tượng trưng, Thơ mới cĩ những phát triển vượt bậc về nghệ thuật. Chỉ hơn 10 năm, phong trào Thơ mới đã “trình chánh giữa làng thơ” một dàn hợp xướng mang phong cách hiện đại: Xuân Diệu, Hàn Mạc Tử, Huy Cận, Chế Lan Viên, Vũ Hồng Chương, Đồn Phú Tứ…
Với những vấn đề trên chúng tơi đã chọn đề tài “Dấu ấn chủ nghĩa tượng trưng trong Thơ mới Việt Nam 1932-1945” với mục đích tìm hiểu nghệ thuật Thơ mới trong sự tiếp biến chủ nghĩa tương trưng.
Đi tìm ảnh hưởng của chủ nghĩa tượng trưng đối với phong trào Thơ mới Việt Nam, TS. Trần Huyền Sâm phát hiện: “Mỗi nhà thơ ảnh hưởng của chủ nghĩa tượng trưng ở mỗi phương diện khác nhau, phù hợp với quan điểm thẩm mỹ của mình. Và ngay trong mỗi nhà thơ, tính chất lãng mạng và tượng trưng luơn giao thoa cùng nhau. Xuân Diệu tìm thấy ở chủ nghĩa tượng trưng một bản nhạc huyền diệu giữa ánh sáng, hương thơm và màu sắc. Vũ Hồng Chương và Bích Khê tìm thấy một thế giới âm nhạc mênh mơng, hư ảo. Hàn Mạc Tử tìm trong thế giới vơ thức, siêu thực, bí ẩn – cái siêu thăng của tâm hồn”. 


Phần nội dung

Chủ nghĩa tượng trưng đã ngự trị ở phương Tây gần nữa thế kỷ và chịu ảnh hưởng sâu sắc đến các nước phương Đơng, đặc biệt là trào lưu Thơ mới Việt Nam 1932-1945. Bằng quan niệm mới về nghệ thuật, chủ nghĩa tượng trưng “mở ra một thế giới cho tư duy thơ”, giúp chúng ta đi sâu vào cõi vơ tận, khám phá những gì mơ hồ, huyền bí nhất trong thiên nhiên, tạo vật và lịng người.
1. Chủ nghĩa tượng trưng cĩ gì khác so với chủ nghĩa lãng mạng trong quan niệm sáng tác nghệ thuật?
Chủ nghĩa tượng trưng cho rằng, bản thân thế giới là “khơng rõ ràng”, người nghệ sĩ phải biết “tìm thấy trong cuộc phiêu lưu của thơ ca cách thức khám phá ra cái điều chưa được biết tới”. Người nghệ sĩ khơng chỉ cảm thấu thế giới bên ngồi, mà cịn nhận biết thế giới bên trong; khơng chỉ nắm bắt cái hiện hữu, mà cịn nghe thấy, cảm thấy cái vơ hình, cái bí ẩn, mơ hồ nằm trong một màn sương dày đặc. Để tìm ra một sợi dây liên hệ giữa thế giới vơ thức và thế giới hữu thức, người nghệ sĩ phải cĩ một cái nhìn “thấu thị” xuyên suốt các sự vật để cĩ thể “"thungthakhonie Bachọc thủng” màn sương bí ẩn, mơ hồ đĩ, nhằm tìm ra chân lý đích thực của nghệ thuật. Nĩi như nhà thơ tượng trưng Bỉ Vecharen: “Tượng trưng là sự thăng hoa của tri giác và cảm giác, nĩ khơng chứng minh gì, mà làm nảy sinh một trạng thái ý thức, nĩ phá vỡ mọi ngẫu nhiên, nĩ là biểu hiện cao nhất tinh thần mà nghệ thuật cĩ thể được”. Các nhà tượng trưng cho rằng, tính chất cảm xúc, trữ tình của chủ nghĩa lãng mạng khơng thể giúp họ hồn thành thiên chức của người nghệ sĩ, họ phải cần đến “sự tổng hịa các giác quan”. Phát huy tối đa sự cộng hưởng giữa các giác quan ấy, nĩ cĩ thể mang lại cho chúng ta một bản nhạc huyền diệu trong sự giao thoa giữa các âm thanh, màu sắc, ánh sáng và hương thơm.
Đây là một đặc điểm vượt xa thi pháp lãng mạn, tiến đến một phương pháp mới trong nhận thức thực tại: khơng giải bày tình cảm một cách trực tiếp, khơng miêu tả, giải thích sự vật một cách lồ lộ, rõ nghĩa. Ở đây, “ý nghĩa được gợi nên bởi sự tượng trưng hồn tồn khơng tồn tại trong chính ý tưởng đĩ; nĩ được nảy sinh từ sự xích lại gần nhau của những cảm giác và những thực tế cụ thể thường là tách biệt với nhau”.
Chủ nghĩa lãng mạng thường thiên về cảm xúc, tính trữ tình; chủ nghĩa tượng trưng thiên về cảm giác, về tính biểu tượng, về sự tương hợp giữa các giác quan nhằm tạo ra “một mạng lưới các ý tưởng” mơ hồ, bí ẩn: “Với chủ nghĩa lãng mạng, ngơn từ thơ là ngơn từ diễn cảm; với chủ nghĩa tượng trưng, ngơn từ thơ là ngơn từ của sự tương hợp, của những mối quan hệ con người và sự vật…nĩ khai thác giấc mơ vơ thức. Nĩ biểu đạt cái tâm hiện đại bằng ngơn từ hiện đại, hay những phiêu lưu của ngơn từ, những nhịp thơ siêu tự nhiên, những lặng im tạo âm vang, những câu thơ đứt, nối, khơng ăn khớp, những duyên dáng tế nhị”.
Đặc biệt các nhà thơ tượng trưng rất chú trọng đến quan niệm tương ứng các giác quan. Quan niệm này đã trở thành một nguyên tắc thẩm mỹ trong sáng tạo thơ ca của chủ nghĩa tượng trưng Valery đưa ra một định nghĩa về thơ gắn với nguyên tắc tương hợp: “Thơ là sự giao động giữa âm thanh và ý nghĩa”. Verlaine quan niện thơ như một bản nhạc mong manh, hư ảo, huyền hồ. Rimbaud lại cho rằng, người nghệ sĩ phải đến với thơ ca bằng con đường thấu thị của một kẻ cĩ thiên nhãn: “Thi sĩ phải làm cho mình thành người cĩ thiên nhãn bằng sự rối loạn lâu dài, rộng khắp và cĩ sự suy tính tất cả các giác quan,…bởi lẽ các giác quan gắn bĩ tabanmohung với thực tại, trở thành tấm màn chắn ngăn ta chẳng thấy được gì xa hơn…Nhà thơ cĩ thiên nhãn cần tìm cho mình một ngơn ngữ thích hợp. Ngơn ngữ này sẽ là của tâm hồn nĩi với tâm hồn, thâu tĩm tất cả mùi hương, âm thanh, màu sắc của tư duy bám riết lấy tư duy và lơi kéo…”. Với quan niệm này, Rimbaud để “sự buơng thả vơ độ cho các giác quan”, giúp cho nhà thơ nhìn thấu suốt mọi tâm hồn và sự vật.
Nhưng cĩ lẽ quan niệm “tương ứng các giác quan” được thể hiện rõ nhất trong sáng tác của Baudelaire. Trong bài tương ứng, nhà thơ đã tìm thấy mối dây liên hệ siêu việt, vơ hình giữa vũ trụ, con người và tạo vật:
Vũ trụ là một ngơi đền mà trụ cột thiên nhiên
Thỉnh thoảng nĩi lên những lời mơ hồ, bí ẩn
Con người đi qua, cả một rừng biểu tượng
Nhìn chúng ta với những con mắt thân quen

Như những tiếng vọng dài, từ rất xa hịa xướng
Trong một âm thanh duy nhất, sâu thẳm tối đen
Mênh mơng như ánh sáng, mênh mơng như bĩng đêm
Hương sắc và âm thanh trong khơng gian tương ứng
Quả thật, bằng “cảm quan về cuộc sống sâu xa của tinh thần” Baudelaire đã đánh thức vùng vơ thức ngủ yên trong con người trở nên linh động, tỏa sáng soi rọi vào cái đẹp huyền diệu, tiềm ẩn đằng sau sự vật, hiện tượng. Baudelaire cho rằng “Cái đẹp bao giờ cũng lạ lùng…cái bất ngờ trong cuộc sống bên ngồi, cuộc sống bên trong, ở những trường hợp giữa hai cuộc sống ấy”. Nhà thơ tượng trưng khơng chỉ miêu tả hiện thực khách quan, khơng diễn giải, phơi bày tình cảm mà khám phá, nắm bắt lịng người, tạo vật thơng qua biểu tượng bằng phép loại suy. Đây là một nguyên tắc mĩ học của thơ tượng trưng vượt qua thi pháp lãng mạng, làm nảy sinh ra một lối tư duy mới trong nhận thức thế giới.
Để mở cánh cửa của một cõi vơ tận đĩ, Baudelaire đã phát huy tối đa phương thức kết hợp tượng trưng: “Ơng táo bạo kết hợp những hình ảnh cụ thể hay những cảm giác, chăm chút những phép tỉnh lược và tạo ra như vậy những liên kết cĩ chất nhạc và ngữ nghĩa mới. Từ đĩ nảy sinh một quan hệ mới với thế giới mà trong đĩ cĩ cảm giác lẫn lộn với nhau và những mâu thuẫn đớn đau biến mất. Tâm hồn cĩ thể “uống ừng ực hương thơm, âm thanh và màu sắc”.
Tĩm lại, thơ tượng trưng là một trào lưu văn học hiện đại. Trong quá trình sinh thành, phát triển nĩ gặp khơng ít cản trở, phản ứng từ nhiều phía. Nhưng vượt qua mọi thử thách, chủ nghĩa tượng trưng đã làm trịn sứ mệnh lịch sử của mình đoạn tuyệt hẳn với nền văn học truyền thống mở ra một nền văn học mới, hiện đại.
2. Dấu ấn chủ nghĩa tượng trưng trong phong trào Thơ mới
Nằm trong dịng chảy của quá trình hiện đại hĩa văn học trong nửa đầu thế kỷ XX thơ ca Việt Nam khơng ngừng vận động và phát triển tạo nên những cú nhảy ngoạn mục, đem đến nhiều biến chuyển sâu sắc, rộng lớn cả chất lẫn lượng. Đặc biệt, phong trào Thơ mới đã làm nên cuộc cách mạng trong lịch sử thơ ca dân tộc, đánh thức “bình minh thơ ca văn học hiện đại”. Phong trào thơ mới quy tụ một lực lượng trí thức Tây học trẻ, táo bạo, cĩ tâm huyết muốn cách tân đem lại những cấu trúc hiện đại phương Tây vào thi ca Việt Nam. Trong sự va chạm với tiếng nĩi văn hĩa phương Tây trước hết là “cuộc gặp gỡ với văn học Pháp và nhất là thơ ca pháp mang lại (…) một dịng máu mới của tâm hồn” tạo nên “Cái vẻ đẹp riêng huy hồng của buổi bình minh thơ văn học hiện đại, đa giọng điệu, nhiều trường phái lắm phong cách”.
Phong trào Thơ mới là nơi gặp gỡ, kết tinh văn hĩa Đơng - Tây. Các nhà thơ thơng qua trường học, sách báo, dịch thuật đã tiếp xúc, làm quen với các trào lưu văn học hiện đại vốn đã phát triển hồn chỉnh ở phương Tây. Vì thế, trong lúc phơi thai cho đến khi những đứa con tinh thần của họ chào đời, mầm sống ấy được nuơi dưỡng bằng nhiều nguồn dưỡng chất. Theo GS. Hồng Nhân, nĩ “khơng phải chỉ chịu ảnh hưởng của chủ nghĩa lãng mạng Pháp đầu thế kỷ XIX mà cịn chịu ảnh hưởng tổng hợp của các khuynh hướng văn học cuối thế kỷ XIX đến đầu thế kỷ XX như chủ nghĩa tượng trưng, nghệ thuật vị nghệ thuật, chủ nghĩa ấn tượng, chủ nghĩa siêu thực. Như vậy chỉ hơn một thập kỷ, Thơ mới đã đi trọn con đường hơn một trăm năm thơ Pháp.
Đến với miền tĩc vàng tuyết trắng, thơ tượng trưng nhanh chĩng tìm được tiếng nĩi đồng cảm ở tầng lớp trí thức trẻ. Đặc biệt, những bơng hoa ác tạo ra một sức hấp dẫn lạ thường. Hầu hết họ bị ám ảnh bởi tính chất hiện đại của thơ Baudelaire. Xuân Diệu, Huy Cận, Đồn Phú Tứ học được ở Baudelaire “nghệ thuật tinh vi”, cách sáng tạo những bản nhạc huyền diệu bằng sự liên tưởng tinh tế, sự hịa hợp tương giao giữa âm thanh, màu sắc hương vị. Hàn Mạc Tử, Chế Lan Viên, “cặp song sinh” của trường thơ loạn đã viết nên những vần thơ kỳ ảo, kinh dị, ma quái từ cái siêu thăng của tâm hồn. Lưu Trọng Lư , Bích Khê tìm thấy giai điệu dịu dàng, trong sáng, mênh mơng, hư ảo, huyền hồ trong thơ Verlaine. Đặc biệt là Xuân Thu nhã tập, nâng thơ lên thành Đạo thiêng liêng, cao quý. Họ xem thơ như là cái gì thanh khiết, cao siêu vì thơ khởi phát từ “cái rung động siêu việt, trong trẻo nhịp nhàng của bản nhạc vơ cùng”.
Xuân Diệu, một trong những nhà thơ sớm ảnh hưởng của Baudelaire. Trong bài diễn thuyết tại trường Sorbonne, ơng nĩi: “Với Baudelaire, tơi đi tồn vẹn vào tính chất hiện đại của thơ”. Trong quan niệm sống và yêu “cùng với Baudelaire, Rimbaud, Verlaine… Xuân Diệu của chúng ta hăng hái, say mê đi tìm ảo ảnh trong mộng để an ủi hồn mình, muốn đến với cả hoan lạc thân xác cho lịm đi những khoắc khoải giữa đời thường”
Trăng, vú mộng đã muơn đời thi sĩ
Giơ hai tay mơn trớn vẻ trịn đầy
(Ca tụng – Xuân Diệu)
Xuân Diệu nĩi đến thân xác nhưng khơng gợi cảm giác sa đọa, trụy lạc, chán chường. Đến “Trường thơ loạn” cái mực thước, thanh tao, trang nhã của thơ truyền thống khơng cịn chỗ đứng. Cái đẹp giờ đây mở rộng biên độ nội hàm, tiếp nhận những yếu tố quái dị, tính dục. Trong lời tựa cho tập “Điêu tàn”, Chế Lan Viên viết:
Trong thơ ta dân Chàm luơn sống mãi
Trong thơ ta xương máu khĩc khơng trơi
Để phục sinh một thời vàng son của dân tộc Chăm - Pa, nhà thơ quay ngược cổ máy thời gian về quá khứ. Ơng tìm thấy những rung cảm trong sự tuyệt vọng, hãi hùng, kinh dị điên cuồng với muơn vàng âm thanh man rợ: “Nĩ gào vỡ sọ, nĩ thét đứt đầu, nĩ khĩc trào máu mắt, nĩ cười tràn cả tủy là tủy”.Chúng cĩ sức thu hút ghê gớm và trở thành biểu trưng nghệ thuật đầy cám dỗ. Các nhà thơ loạn truy tầm cái đẹp từ trong cái chết, trong trạng thái “máu cuồng và hồn điên”.Chính Hàn Mạc Tử thừa nhận khi sáng tác, thi sĩ ở trạng thái “mê sảng”, “chiêm bao”, “mất trí” tức là dựa vào tìm thức, trực giác nảy sinh tức thời khơng cĩ sự can thiệp của lý trí:
Ta muốn hồn trào ra đầu ngọn bút
Mỗi lời thơ đều dính não cân ta


Bao nét chữ quay cuồng như máu vọt
Như mê man chết điếng cả làn da
(Rướm máu – Hàn Mạc Tử)
Nĩi đến dấu ấn của chủ nghĩa tượng trưng trong Thơ mới, chúng ta khơng thể bỏ qua quan niệm “tương ứng cảm quan” của Baudelaire. Các nhà thơ mới đã phối ứng lại thế giới tự nhiên theo những chiều kích thước khác nhau. Bích Khê tận hưởng trong điệu nhạc cái hương vị “mát như xuân và ngọt tợ hương” hay ngây ngất đê mê trong khơng gian ảo, trộn hịa muơn hương sắc, nĩ dẫn dắt hồn thi sĩ lạc vào vùng mộng tuyết bến xa khơi. Huy Cận Đi giữa đường thơm đã cảm thấu “trong khơng khí…hương với màu hịa hợp”. Cái nhìn thế giới trong tính thống nhất “tối tăm và sâu thẳm”, “thiên nhân hợp nhất” giúp họ phát huy tối đa sức mạnh giao thoa, mở rộng tâm hồn, thăng hoa cảm xúc. Hàn Mạc Tử khi tan biến vào ánh trăng định mệnh đã ngửi thấy mùi hương. Vọng nghe tiếng nhạc: “Trăng là ánh sáng nhất là giữa mùa thu, ánh sáng càng thêm kỳ ảo, thơm thơm và nếu người cho thơ lắng nghe một cách ung dung, sẽ nhận thấy cĩ nhiều tiếng nhạc say say giĩ xé rách lả tả”(Chơi giữa mùa trăng).
Hơn ai hết Xuân Diệu đã vận dụng thuần thục lời thầm chú của Baudelaire để mở ra cánh cửa huyền diệu cho thi ca:
Này lắng nghe em khúc nhạc thơm
Say người như rượu tối tân hơn
Như hương thấm tận qua xương tủy
Âm điệu thần tiên thấm tận hồn
Bài thơ là một bản hợp tấu của hương thơm, màu sắc, âm thanh. Chúng được nhà thơ cảm thấy, nghe thấy, nhìn thấy, ngửi thấy, nếm thấy…khĩ lịng mà nĩi hết khả năng cảm quan tương ứng của Xuân Diệu, song cũng phải thừa nhận hồn thơ thi nhân như một cung đàn đã lên đúng tơng độ chỉ cần một làn giĩ thoảng qua, một mùi hương đưa lại hay một rung động khẽ càng khiến nĩ ngân lên muơn vàng giai điệu giao hịa.
Trong đau thương, Hàn Mạc Tử chết lịm, mê man với hồn, với máu, trăng. Chúng bao bọc, vắt kiệt tinh lực nhà thơ vì ở đâu cũng đầy trăng, đầy máu, đầy hồn nhưng chúng cũng là nguồn cảm hứng sáng tạo vơ biên:
Khơng gian dày đặc tồn trăng cả
Tơi cũng trăng mà nàng cũng trăng
(Huyền ảo-Hàn Mạc Tử)
Giĩ rít từng cao trăng ngã ngửa
Vỡ tan thành vũng đọng vàng khơ
(Say trăng-Hàn Mạc Tử)
Trăng trong thơ Hàn Mạc Tử khơng đem lại cảm giác thanh bình, tĩnh lặng như trong thơ thiền hay làm chứng nhân cho lời thề nguyền, hẹn ước của đơi tình nhân Kim - Kiều trong “Truyện Kiều”: “Vầng trăng vằng vặc giữa trời. Đinh ninh hai miệng, một lời song song”. Nĩ là bầu khí quyển bao quanh mọi cảm giác, suy tưởng cĩ khi nĩ lẫn vào thân xác, tan biến trong linh hồn để rồi thi sĩ mửa ra tồn là máu, tồn trăng, tồn hồn. Ba biểu tượng ấy biến hĩa vơ cùng: khi hữu hình, khi vơ hình, khi mê hoặc, khi kinh hồng, khi trần tục, khi thiêng liêng. Song chúng thể hiện sự nhất quán trong sáng tạo nghệ thuật bởi thi nhân muốn làm người “khách lạ đi giữa nguồn trong trẻo” và hát vang “âm điệu thiêng liêng khi máu cuộn rền vang dưới ngịi bút”. Do đĩ khơng cĩ gì lạ khi ta bắt gặp trong thơ Hàn Mạc Tử một thế giới tràn ngập ánh sáng của trăng, một điềm ác mộng của hồn, một niềm đau thương, nhiệm màu của máu và ẩn sau đĩ là lịng yêu cuộc đời. Lịng yêu ấy lại ẩn dấu trong những ý thơ lạ ngỡ như điên rồ.
Bích Khê cũng tìm đến với sọ người nhưng nĩ khơng đem lại cảm giác ghê rợn, chết chĩc điên cuồng như Chế Lan Viên. Tác giả khơng mơ tả trực tiếp mà chỉ đưa ra những gợi ý liên tưởng, loại suy nên sọ người trong mắt thi nhân hĩa thành “bình vàng”, “chén ngọc”, “hồ nguyệt” cĩ sức ám thị người đọc. Theo Đỗ Lai Thúy: “Từ Bích Khê trở về sau, ưa dùng những biểu tượng trùng phức và gợi ý”. Bởi lúc này, cái nhìn thế giới của nhà thơ khơng cịn đơn tuyến mà đa diện, khơng chỉ hữu thức mà cả vơ thức, nên “thơ là sự giăng mắt đi về giữa hai thế giới. Biểu tượng thi ca, bởi vậy phải chuyển từ đơn sang phức”. Cho nên đối diện với cái sọ người, Bích Khê liên hệ tới “tiền thân” của nĩ. Từ đĩ, cái sọ người liên tục chuyển kênh tạo ra những hình ảnh kì ảo, lạ lẫm:
Ơi khối mộng của hồn thơ chếch chống!
Ơi buồn xuân hơ hớ cánh đào sương!
Ơi bình vàng! Ơi chén ngọc đầy hương!
Ơi thân tình! Người chứa một trời thương.
Nhìn chung biểu tượng trong thơ Hàn Mạc Tử, Chế Lan Viên, Bích Khê mang tính chất tâm linh. Vì thế mật mã để độc giả đối thoại với “rừng biểu tượng” này chính là thiên nhãn, linh cảm về cái siêu nhiên, huyền bí của vũ trụ lịng người.
Một đặc điểm nữa là Thơ mới in dấu ấn chủ nghĩa tượng trưng “là để thể nghiệm thế giới tiên nghiệm, thế giới chiêm bao và tiềm thức” cần phải “mang tinh thần âm nhạc” vào thơ ca. Thơ mới đã nhấn mạnh thêm một bước trên con đường chinh phục âm nhạc hiện đại cho thơ. Đĩ cũng là nguyên nhân dẫn dến sự bùng nổ và thắng thế của Thơ mới. Nĩi như thế khơng cĩ nghĩa là thơ cổ điển khơng chú ý đến nhạc điệu. Trái lại các nhà thơ xưa cĩ hẳn một tiêu chí “thi trung hữu họa, thi trung hữu nhạc” nhưng “tính nhạc của thơ được tạo ra bằng âm thanh những từ được lựa chọn, sắp đặt cốt sao khuơn theo những thi điệu cĩ sẵn (miễn là đúng niêm luật), thành ra trong thơ cũ, âm thanh và ý nghĩa bị tách ra, mỗi thứ một đường. Vì từ được sử dụng với nghĩa thơng thường, cĩ sẵn nên nội dung thơ “tầm thường”, vì âm thanh của từ được khuơn vào thi điệu cĩ sẵn nên nhạc điệu thơ trống rỗng”. Cịn trong Thơ mới, âm nhạc là vị cứu tinh giúp thơ đạt tới quyền lực siêu nhiên, đi sâu khám phá bản chất của tạo vật và nội tâm. Đồng thời, nhạc điệu Thơ mới ngân lên từ điệu tâm hồn của chủ thể khơng bị gị ép, uốn nắn cho hợp thể nên giữ được tính độc lập, đa dạng, tinh tế. Đỗ Đức Hiểu cho rằng: “Tính nhạc trong Thơ mới, luơn biến đổi, nĩ phối hợp hịa âm với nghịch âm, tính nhạc hịa trộn với tâm trạng thi nhân chuyển động từng giây, từng phút”. Vì vậy, nhạc khơng tách rời ý nghĩa, nĩi như Valery: “Thơ là sự giao động giữa âm thanh và ý nghĩa”. Nhạc ở đây được cất lên một cách tự nhiên từ cõi lịng sâu thẳm của nhà thơ. Luật bằng trắc bị đẩy xuống hàng thứ yếu. Tính nhạc được vang lên từ điệu thơ, mà cội nguồn sâu thẳm của nĩ là cảm xúc của thi nhân. Bởi vậy, trong thơ hiện đại phương Tây cũng như Thơ mới Việt Nam, cĩ những bài thơ khơng vần nhưng vẫn mang nhạc tính cao. Chẳng hạn trong bài “Vội vàng” của Xuân Diệu, tuy khơng phụ thuộc vào niêm luật chặt chẽ như trong thơ cổ điển nhưng vẫn mang tính nhạc cao:
Tơi muốn tắt nắng đi
Cho màu đừng nhạc mất
Tơi muốn buột giĩ lại 
Cho hương đừng bay đi.
Tất nhiên, vần bao giờ cũng đĩng vai trị quan trọng trong thơ, nhưng đến Thơ mới, vần khơng cịn là một yếu tố mà nghệ sĩ phải “nơ lệ” chúng. Vần bị lơi kéo bởi nhạc lịng, bởi cảm hứng êm dịu hoặc cuồng nhiệt của nhà thơ. Bởi vậy mà âm nhạc trong thơ được thể hiện muơn hình vạn trạng như thế giới tâm hồn đa dạng của thi nhân. Đây là một cách tân lớn trong sự thể hiện cảm xúc và quan niệm thẩm mỹ của thơ ca Việt Nam.
Âm nhạc đã mê hoặc, dẫn dắt thi sĩ bước đi như người mộng du vào thế giới thực hư, huyền ảo của miền quá khứ trong cảm xúc bồng bềnh, chơi vơi:
Sương nương theo trăng ngừng lưng trời
Tương tư nâng lên lịng chơi vơi
(Nhị hồ-Xuân Diệu)
Nếu Xuân Diệu học tập thơ tượng trưng Pháp cách tạo nhạc cho thơ ở bước thể nghiệm thì đến Bích Khê, Xuân Thu nhã tập được triển khai trên bình diện rộng với những phá cách táo bạo…Bích Khê cĩ hẳn một bản nhạc đàn được phối kết từ nhiều thanh âm: Mộng cầm ca, Tỳ bà, Tiếng đàn mưa... Với nhạc thi sĩ thể hiện cách thẩm âm độc đáo, lạ lẫm, khơng bằng thính giác mà bằng cõi lịng, bằng tâm hồn siêu thăng trong trạng thái ngưng động đặc biệt:
Thơ bay! Thơ bay vơ bàn tay ngà.
Thơ ngà ngà say! Thơ ngà ngà say!
Nàng ơi! Đừng động… cĩ nhạc trong giây!
Nhạc gây hoa mộng, nhạc ngát trong mây
Nhạc vơ cung hường, nhạc vơ đào động
Ơi nàng tiên nương! Hớp nhạc đầy sương…
Hàn Mạc Tử cho rằng: “Thi sĩ Bích Khê cĩ đơi mắt rất mơ, rất mộng, rất ảo, nhìn vào thực tế, thì sự thực sẽ trở thành chiêm bao, nhìn vào chiêm bao lại thấy xơ sang địa hạt huyền diệu”. Nhạc chính là thế giới huyền diệu đĩ - một thế giới thăng hoa được kết tụ bằng hương thơm, màu sắc và ánh sáng. Một thế giới huyền diệu được cảm nhận trong niềm hoan lạc vơ biên. Bích Khê đã chạm đến những cõi đã tưởng chừng như hồn tồn vơ hình, mờ ảo, hoa mộng, đào động, nàng tiên nương…nhưng chúng vẫn hiển linh; bởi tất cả những hình ảnh đĩ đều biến ảo, lùi xa vào cõi mơ hồ, nhường cho âm thanh của thế giới huyền diệu ấy vang lên, ngân lên, dội vào sâu thẳm của lịng người.
Theo Hồi Thanh, bài thơ Màu thời gian của Đồn Phú Tứ là “ một lối thơ rất tinh tế và kín đáo…hình ảnh mờ quá…Cĩ khi ý nghĩa của bài thơ cũng khơng hiểu rõ”. Hình tượng cĩ tính triết học Màu Thời gian biểu tượng cho một tình yêu vĩnh cửu. Tình yêu đĩ khơng dễ lộ rõ, nĩ chỉ hiện ra trong sự hịa phối giữa khơng gian lẫn hương sắc, thanh âm.
Màu thời gian khơng xanh
Màu thời gian tím ngát
Hương thời gian khơng nồng
Hương thời gian thanh thanh
Một tình yêu khơng thể cắt nghĩa bằng những ngơn từ thuần túy, những tư duy lơgic, nĩ vượt lên trên thế giới thực tại, tràn sang bờ hư vơ và chiếm lĩnh người đọc một cách “tức khắc, hồn tồn, tất nhiên”. Biểu tượng Màu thời gian đã cĩ sức ám gợi ghê gớm, nĩ làm cho tâm trí ta chìm hẳn trong quá khứ để tái hiện những gì đã qua nhưng khơng dễ mất đi.
Duyên trăm năm đứt đoạn
Tình một thuở cịn hương
Hương thời gian thanh thanh
Màu thời gian tím ngát
Màu thời gian của Đồn Phú Tứ cĩ thể xem là một bài thơ trong trẻo, gợi cảm, đáng yêu nhất của Xuân Thu nhã tập. Nhạc sĩ Nguyễn Xuân Khốt đã “chuyển hĩa” bài thơ thành một bản nhạc huyền diệu.
Tĩm lại, Thơ mới cĩ những cuộc bứt phá ngoạn mục, nhanh chĩng bắt kịp nhịp độ phát triển và hịa vào dịng chảy của thi ca hiện đại thế giới. Đến nay, chúng ta vẫn cịn ngỡ ngàng, thán phục trước sự sáng tạo vơ biên của các thi sĩ thời bấy giờ. Chỉ hơn một thập kỷ đĩn cơn giĩ ngược từ phương Tây thổi lại mà cánh diều Thơ mới đã vụt bay cao. Đặc biệt, là sự gặp gỡ thơ tượng trưng Pháp là tâm điểm thu hút các nhà thơ trẻ, giúp họ tiến nhanh trên con đường hiện đại hĩa thơ ca dân tộc.Tuy nhiên, theo nhiều nhà nghiên cứu: Thơ mới Việt Nam chưa thể hình thành một chủ nghĩa tượng trưng như ở phương Tây. Song khơng thể phủ nhận chủ nghĩa tượng trưng đã in dấu ấn rõ nét và gĩp phần làm nên giá tri của Thơ mới.mhi cua
tamocieLongấnhahg thaoungnge

 sa
 rhiatheond..




















Phần kết luận


 Chủ nghĩa tượng trưng đã ngự trị ở phương Tây gần nửa thế kỷ và ảnh hưởng sâu sắc đến các nước phương Đơng, đặc biệt là trào lưu Thơ mới Việt Nam. Bằng quan niệm mới về nghệ thuật, chủ nghĩa tượng trưng cĩ khả năng “mở ra một thế giới cho tư duy thơ”, giúp chúng ta đi sâu vào cõi vơ tận, khám phá những gì mơ hồ, huyền bí nhất trong thiên nhiên, tạo vật và lịng người. Một số nhà nghiên cứu cho rằng, phong trào Thơ mới (vào giai đoạn cuối) thực chất là một cuộc hơn phối siêu đẳng giữa tinh hoa thơ tượng trưng Pháp, tinh hoa thơ Đường với tinh hoa của thơ cổ điển Việt Nam. Chủ nghĩa tượng trưng tuy cĩ những nét cảm quan của chủ nghĩa suy đồi nhưng tiềm ẩn trong đĩ cĩ một sức mạnh diệu kỳ cĩ khả năng cải tạo cuộc đời, tác động tinh thần con người, thậm chí như một hệ nhãn quan, một hoạt động kêu gọi đổi mới xã hội, chống lại thực tại tư sản - một thực tại thù địch

File đính kèm:

  • docChuyen de boi duong hoc sinh gioi tho moi(1).doc