Chuyên đề Một số yếu tố hình thức nghệ thuật cần chú ý khi phân tích thơ trữ tình

doc7 trang | Chia sẻ: haohao | Lượt xem: 2211 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Chuyên đề Một số yếu tố hình thức nghệ thuật cần chú ý khi phân tích thơ trữ tình, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên

MỘT SỐ YẾU TỐ HÌNH THỨC NGHỆ THUẬT CẦN CHÚ Ý KHI PHÂN TÍCH THƠ TRỮ TÌNH

ĐẶT VẤN ĐỀ:
Trong nền văn học Việt Nam chúng ta có thể thấy mảng thơ trữ tình chiếm một vị trí quan trọng và độc tôn. Điều đó không thể chối cãi. Vì vậy môn ngữ văn ở trường THCS cũng giảng dạy một số lượng thơ trữ tình cũng không ít trong các lớp 6, 7, 8, 9 gắn liền vớI các đề tài, chủ đề khác nhau. Với các nhân vật trữ tình khác nhaum xoay quanh đời sống tinh thần của con người, diễn tả nội tâm, tâm trạng và những cung bậc tình cảm khác nhau của con người. Chính vì vậy mà thơ trữ tình được đưa vào nhà trường là tất yếu. Vậy chúng ta phải dạy thơ trữ tình như thế nào để học sinh nắm được tâm trạng, cảm xúc, cách thể hiện tình cảm của các nhân vậttrữ tình được xem là đặc trưng nổi bật của thơ trữ tình. Sau đây là một vài yếu tố hình thức nghệ thuật cần chú ý khi phân tích thơ trữ tình.
CƠ SỞ LÍ LUẬN:
ĐẶC TRƯNG CỦA THƠ TRỮ TÌNH VÀ MỘT SỐ LỖI CẦN TRÁNH KHI PHÂN TÍCH THƠ TRỮ TÌNH.
1. Đặc trưng của thơ trữ tình.
Thơ là một hình thức nghệ thuật đặc biệt. Hệ thống cảm xúc, tâm trạng và cách thể hiện tình cảm, cảm xúc được xem như là đặc trưng nổi bật của thơ trữ tình. Trong các tác phẩm thuộc các thể loại như văn xuôi, tự sự, kịch… cũng có cảm xúc, tâm trạng, nhưng cách thể hiện thì rất khác so với thơ trữ tình. Cảm xúc của tác giả có trong các thể loại văn học kể trên là thứ cảm xúc được thể hiện một cách gián tiếp thong qua hệ thống hình tượng nhân vật, các sự kiện XH và các diễn biến của câu chuyện… Trái lại, trong thơ trữ tình, tác giả bộc lộ trực tiếp cảm xúc của mình.
	VD trong đoạn thơ sau.
	Nay xa cách lòng tôi luôn tưởng nhớ
	Màu nước xanh, cá bạc, chiếc buồm vôi
	Thoáng con thuyền rẽ song chạy ra khơi,
	Tôi thấy nhớ cái mùi nồng mặn quá
	Tế Hanh – Quê Hương
Người đọc cảm nhận được rất rõ tấm lòng và tình cảm nhớ nhung da diết của nhà thơ Tế Hanh đối với quê hương, nơi ông đã sinh ra, lớn lên và gắn bó một thời. Ở đây nhà thơ công khai và trực tiếp nói lên những tình cảm, suy nghĩ của chính mình. Khác cách thể hiện tình cảm trong thơ, chúng ta hay doc đoạn văn sau:
	Hôm sau Lão Hạc sang nhà tôi, Vừa thấy tôi Lão báo ngay:
Cậu Vàng đi đợì rồi, ông giáo a. !
Cụ bán rồi? 
Bán rồi! Họ vừa bắt xong.
Lão cố gắng làm ra vẻ vui vẻ. Nhưng trông lão cười như mếu và đôi mắt lão ầng ậng nước…
Thế nó cho bắt à?
Mặt Lão đột nhiên co rúm lại. Những vết nhăn xô lại với nhau, ép cho nước mắt chảy ra. Cái đầu Lão nghoẹo về một bên và cái miệng móm mém của Lão mếu như con nít. Lão hu hu khóc… 
	(Nam Cao – LãoHạc)

Người kể chuyện ở đây xưng “tôi”, nhưng “tôi” đây là ông giáo chứ không phải Nam Cao. Nhà văn hoàn toàn không xuất hiện mà giấu mình đi. Trong trang sách chỉ có ông giáo kể lại câu chuyện. Như thế phải qua cách kể chuyện và miêu tả nhân vật ông giáo về nỗi ân hận, đau khổ đến cùng cực của Lão Hạc. Chúng ta mới thấy được tấm lòng thông cảm, thái độ trân trọng yêu mến của Nam Cao đối với nhân vật này.
Trong nhiều bài thơ trữ tìnhnhà thơ xưng “ta” chẳng hạn
	“Ta nghe hè dậy bên lòng
	Mà chân muốn đạp tan phòng hè ôi”
	(Tố Hữu)
Hoặc nhiều khi không thấy xưng “ta” hay “tôi” gì cả mà chỉ thấy một ai đó đang lẳng lặng kể và tâm sự, tâm tình, chẳng hạn 
	“Năm nay đào lại nở
	Không thấy ông đồ xưa
	Những người muôn năm cũ
	Hồn ở đâu bây giờ?”
	(Ông Đồ - VuDinh Lien)
Trong trường hợp như thế người ta xưng “ta” hoặc không xưng gì cũng đều là chính nhà thơ. Nghĩa là sau câu thơ vẫn hiện lên rất rõ tấm lòng và tình cảm sâu nặng của tác giả. Có những trường hợp nhà thơ mượn lời của một nhân vật nào đó, nhập vai vào một ai đó mà thổ lộ tâm tình (người ta gọi là trữ tình nhập vai) thì thực chất nhân vật trữ tình đó cũng chính là tác giả. Thế Lữ mượn lời con Hổ trong vườn bách thú để dốc bầu tâm sự của chính ông về nỗi chán ghét cái xã hội giả dối, nghèo nàn, nhố nhăng, ngớ ngẩn đương thời, để nói lên khát vọng tự do, khát vọng về một cái thời đi không trở lại… ông viết 
	“Ta sống mãi trong tình thương nỗI nhớ
	Thủa tung hoành hống hách những ngày xua”
Thì ta ở đây la con Hổ cũng chính là nhà thơ Thế Lữ
Như vậy khi chúng ta phân tích thơ trữ tình thực chất là chỉ ra tiếng long sâu thẳm của chính nhà thơ. Nhưng tiếng long ấy lại được thể hiện rất cô đọng và hàm xúc bằng một nghệt thuật độc đáo - Nghệ thuật ngôn từ. Tiếp xúc với một bài thơ trữ tình trước hết là tiếp xúc bởi một hình thức nghệ thuật ngôn từ này. Nhà thơ gửi long mình qua những con chữ, trong những con chữ và các hình thức biểu đạt độc đáo khác. Tiếng kêu đau đớn đột ngột của Tố Hữu trước sự ra đi của chú bé lien lạc được thể hiện qua chữ “thôi rồi” và hình thức gẫy nhịp của câu thơ.
	“Bỗng lòe chớp đỏ
	Thôi rồI lượm ơi!”
Như thế phân tích thơ trữ tình trước hết phải xuất phát từ chính các hình thức nghệ thuật, ngôn từ mà chỉ ra vai trò và tác dụng của chúng trong việc thể hiện tình cảm, thái độ của nhà thơ.
Nắm chắc đặc điểm và yếu tố trên chúng ta sẽ tránh được các lỗi dễ mắc trong việc phân tích và cảm nhận thơ trữ tình.
2. Những lỗi cần phải tránh khi phân tích thơ trữ tình:
Chỉ phân tích nội dung và tư tưởng được phản ánh trong bài thơ, không thấy hình thức nghệ thuật. Đây thực chất chỉ diễn xuôi nội dung thơ ra mà thôi
Có chú ý đến các hình thức nghệ thuật, nhưng tách rờI các hình thức nghệ thuật nhưng tách rời các hình thức nghệ thuật ra khỏi nội dung (thường là gần kết bài mới nói qua một số hình thức nghệ thuật được nhà thơ sử dụng trong bài)
Suy diễn một cách máy móc, gượng ép phi lí các nội dung và vai trò, ý nghĩa của các hình thức nghệ thuật trong bài thơ.
=> Tóm lại, để phân tích bài thơ trữ tình có cơ sở khoa học, có sức thuyết phục cần đến rất nhiều năng lực, nhưng trước hết người phân tích cần nắm được một số hình thức nghệ thuật sau
MỘT SỐ YẾU TỐ HÌNH THỨC NGHỆT THUẬT CẦN CHÚ Ý KHI PHÂN TÍCH THƠ TRỮ TÌNH.
Đọc tác phẩm văn học trước hết chúng ta tiếp xúc vớI những hình thức nghệ thuật cụ thể của ngôn từ nghệ thuật. Đó là những dấu câu và cách ngắt nhịp, là vần điệu, âm hưởng và nhạc tính, là từ ngữ và hình ảnh, là câu và sự tổ chức đoạn văn, là văn bản và thể loại của văn bản… Phân tích tác phẩm văn học không được thoát ly văn bản có nghĩa là trước hết phải bám sát các hình thức biểu hiện lên của ngôn từ nghệ thuật, chỉ ra vai trò và ý nghĩa của chúng trong việc thể hiện nội dung. Vậy chúng ta phân tích thơ trữ tình phải dựa trên thi pháp.
1.	Nhịp thơ:
Nhịp điệu có vai trò, ý nghĩa quan trọng đối với thơ trữ tình. Nó giúp nhà thơ nâng cao khả năng biểu cảm, cảm xúc. Phân tích thơ trữ tình tình không thể không chú ý đến phân tích nhịp thơ. Để xác định nhịp điệu của từng bài thơ ngoài việc đọc từng câu thơ cho ngân vang âm điệu và làm bừng sang hình ảnh thơ, việc nắm được đặc điểm chung của mỗi thể loại cũng là điều rất cần thiết. Thường thường nhip điệu câu thơ lục bát uyển chuyển,mềm mại, thanh thoát, nhịp điệu thơ thất ngôn bát cú hài hòa, chặt chẽ, nhịp của thơ tự do, thơ hiện đại rất phóng khoáng, phong phú.
Trong thơ trữ tình, cùng với dấu câu, cách ngắt nhịp cần được xem là một từ đa nghĩa, một từ đặc biết trong vốn ngôn ngữ chung của nhân loại. Chúng ta đều biết rằng trong những tình huống giao tiếp thong thường của cuộc sống, im lặng lắm khi lại nói được rất nhiều: Khi căm thù tuột đỉnh, lúc xao xuyến bâng khuâng, khi cô đơn buồn bã, lúc xúc động dâng trào… Những cung bậc tình cảm ấy nhiều khi không được mô tả bằng chữ nghĩa. Sự ngắt nhịp là một trong những phương tiện hữu hiệu để thể hiện “sự imlăng không lời” tạo nên “ý tại ngôn ngoại”, tính hàm nghĩa tạo ra điều không thể nói.
	VD: Khi dạy đoạn ngâm trong bài”Sau phút chia ly”. Ta thấy tâm trạng nhà thơ chi phối trực tiếp cách tổ chức, vận hành nhịp điệu của khúc ngâm. Với tâm trạng lưu luyến, nỗi buồn xa cách giữa người chinh phu và người chinh phụ. Chúng ta phải đọc đúng cách ngắt nhịp của khúc ngâm mới phân tích được khúc ngâm một cách sâu sắc.
2.	Vần thơ
Tiếng Việt rất giàu tính nhạc. Hệ thống vần điệu và thanh điệu là những yếu tố cơ bản tạo nên tính nhạc của Tiếng Việt nói chung và ngôn từ văn học nói riêng. Vì vậy khi phân tích thơ trữ tình giáo viên cần chú ý phân tích vần thơ, cách gieo vần
	VD: 	Cùng trông lạI mà cung chẳng thấy
	Thấy xanh xanh những mấy ngàn dâu
	Ngàn dâu xanh ngắt một
	Lòng chàng ý thiếp ai sầu hơn ai.
Vần của các câu được hiện với nhau trong đoạn thơ trên là sự hài hòa trong cùng một âm vực cao thấp, một trường độ âm thanh phát ra. Đó là sự hài hòa có được từ việc phối âm giữa các tiếng trong một cặp song thất. Xét từng cặp câu chúng ta thấy được sự hòa âm giữa câu 1 và câu 2, giữa câu 3 và câu 4 nhờ vào những âm giống nhau giữa tiến thứ bảy của câu bảy và tiếng thứ năm của câu bảy ở câu song thất, giữa tiếng thứ sáu của câu sáu và tiếng thứ sáu của câu tám trong cặp lục bát. Với sự hòa âm này của các câu thơ như níu kéo, lưu giữ lấy nhau trong từng đoạn hay cả bài thơ tạo nên sự trầm lắng, mênh mông, bang khuâng, da diết của cái buồn trong đoạn thơ, góp phần biểu đạt một cách hiệu quả tâm trạng nhân vật trữ tình.
Tạo nên nhạc tính của thơ thực ra không chỉ có vần và hệ thống âm điệu mà ngay cả các âm trong mỗi tiếng cũng có những giá trị biểu đạt nhất định. Theo Đinh Trọng Lạc âm “a” gợi sự vui tươi bao la “Nhìn nhau mặt lấm cười ha ha” ( Phạm Tiến Duật), âm “r” gợi sự hãi hùng run sợ “Những luồng run rẩy rung rinh lá” (Xuân Diệu), Âm “u”, “âu” gợi sự u sầu bâng khuâng “Thấy xanh xanh những mấy ngàn dâu – Ngàn dâu xanh ngắt một màu”.
Có thể dẫn ra rất nhiều ví dụ để minh họa cho tính nhạc của ngôn ngữ Việt trong thơ. Khi ta phân tích tác phẩm văn học (Nhất là thơ) Giáo viên cần hết sức chú trọng yếu tố này. Khi thấy âm hưởng, nhạc điệu của câu thơ không bình thườngm, có sự chuyển đổi thì hãy tập trung phân tích chỉ ra giá trị, vai trò và tác dụng của chúng trong việc thể hiện nội dung.
3.	Từ ngữ và các biện pháp tu từ:
Đây là yếu tố cơ bản và quan trọng nhất của hình thức chất liệu ngôn từ. Bởi vì mọi nội dung cần thể hiện của tác phẩm văn học không thể có cách nào khác là nhờ vào hệ thống từ ngữ ấy. Cá phương tiện như dấu câu nhịp điệu ngữ âm đã nêu ở trên chỉ có ý nghĩa khi nằm trong một văn bản mà từ ngữ là nền tảng. Nhà văn muốn mô tả, tái hiện hiện thực phải thông qua từ ngữ. Muốn đánh giá được nhà văn viết về những điều đó như thế nào lại cũng phải thong qua chữ nghĩa trong văn bản “Văn học là nghệ thuật của ngôn từ” Chính là như vậy. Do tầm quan trọng ấy mà người ta coi lao động của nhà văn là thứ lao động chữ nghĩa. Có thể nói ngôn từ là một đặc trưng quan trọng và nổi bật của văn học. Vì thế giáo viên khi dạy phải chú ý một số điểm sau: 
-	Thứ nhất: Phân tích tác phẩm văn học không thể thoát ly và bỏ qua yếu tố từ ngữ. Muốn phân tích tốt từ ngữ trước hết phải nắm vững nghĩa của từ (Nghĩa chung và nghĩa trong văn cảnh cụ thể) sau đó luôn luôn suy nghĩ và đặt câu hỏi: Tại sao nhà văn dung từ này mà không dung từ khác? VD: trong bài “Cảm nghĩ trong đêm thanh tĩnh” của Lý Bạch, câu thơ đầu “Sàng tiền minh nguyệt quang”, tại sao tác giả lại dung từ “sàng” mà không dung từ “thượng” đều có nghĩa là giường? hoặc tại sao từ ngữ này lại xuất hiện nhiều như thế? Có bao nhiêu từ đồng nghĩa với từ này? Có thể thay từ khác được không? VD: Trong bài “Tiếng gà trưa” ( Xuân Quỳnh) torng khổ thơ cuối từ “vì” có thay từ khác được không? Tại sao tác giả lại dung từ đó? hoặc giáo viên có thể đặt câu hỏi “ trong câu ấy, đoạn ấy từ nào cần chú ý?” Giáo viên cần phải lưu ý cho học sinh biết một bài thơ có những từ có giá trị diễn đạt đắt nhất. trong thực tế có những giáo viên không để ý khi phận tích, lại say sưa tán tụng những từ ngữ không phải nhãn tự của bài thơ sẽ làm mất thời gian và không làm nổi bật được bài thơ. Trong trường hợp phân tích các bài thơ những tác phẩm văn học dịch, phải thật thận trọng khi phân tích từ ngữ. Bởi vì những từ đưa ra bình giá chưa chắc là những từ tác giả dùng trong nguyên bản.
-	Thứ hai: Người ta nói nhiều đến phân tích hình ảnh trong tác phẩm văn học, nhưng phân tích hình ảnh trong tác phẩm văn học là phân tích từ ngữ. Nhiều người đã nhầm tưởng phân tích từ ngữ và hình ảnh khác nhau nhưng thật ra là một. VD: Câu thơ của Nguyễn Du tả chân dung Tú Bà.
	Thoát trông lờn lợt màu da
	Ăn gì to lớn đãy đà làm sao?
	(Truyện Kiều)
Vẽ chính xác thần thái của một mụ chủ nhà chứa, bọn buôn thịt bán người. . Ta cũng thấy rõ thái độ của tác giả đối với loại người đó. Chữ “lờn lợt” lột tả được rõ nét nhất thần thái của Tú Bà! thực khó diễn tả bằng những từ ngữ khác: Vừa bóng nhẫy, vừa mai mái hay vàng bủng chăng? Đó là bộ mặt “thiếu vệ sinh” có nhà phê bình cho rằng ta đọc câu thơ này có cảm giác lợm giọng là như thế. Còn hai chữ “ăn gì” lại dường như muốn liệt mụ chủ chứa vào một giống loài gì đó không phải giống người. Bởi vì giống người thì ăn cơm, ăn thịt, ăn gạo, ăn cá … Chu “ăn gì” là sao? Đó là một ví dụ để thấy phân tích hinh anh và phân tích từ ngữ là một điều giáo viên cần lưu ý
-	Hệ thống từ ngữ hình ảnh, cảm giác trong Tiếng Việt rất phong phú, da dạng
	VD:	Gợi về tâm trạng như: xao xuyến, bang khuâng, phân vân …
	Gợi về thị giác: La đà, lơ lửng, chấp chới …
	Gợi về thính giác: mặn chat, chua lòm, ngọt lịm…
	Gợi về xúc giác: Lạnh ngát, nóng bỏng, xù xì…
-	Thứ ba: Để tạo cách nói, cách viết có hình ảnh, gợi hình tượng bằng từ ngữ. Các nhà văn có thể vận dụng những cách: khi thì dùng từ láy:
	VD:	NỗI niềm chi rứa Huế ơi
	Mà mưa xối xả trắng trờI Thừa Thiên
	(Mẹ Tơm - Tố Hữu)
	VD:	Ruộng nương anh gửi bạn thân cày
	Gian nhà không mặc kệ gió lung lay
	(Đồng Chí – Chính Hữu)
-	Thứ tư: Ngôn từ Văn học là loại ngôn từ đã được chắt lọc từ ngôn ngữ đời thường, được nâng cấp, sửa sang, làm cho nó càng óng ả, giàu đẹp hơn. Các biện pháp tu từ chính là những phương tiện quan trọng để thực hiện nhiệm vụ trang điểm cho ngôn từ văn học. Có rất nhiều biện pháp tu từ: ẩn dụ, hoán dụ, nhân hóa, so sánh, điệp ngữ, … Tất cả những biện pháp đó nhằm mục đích giúp người nói, người viết có những cách diễn đạt hay hơn, đẹp hơn, phong phú hơn, và do vậy mà hiệu quả cao hơn. Phân tích các biện pháp tu từ giáo viên cần chỉ ra tính hiệu quả của cách viết, cách nói ấy, vai trò và tác dụng của chúng trong việc miêu tả, biểu đạt chứ không phải đơn thuần chỉ gọi tên liệt kê các biện pháp mà nhà văn đã dung.
4.	Không gian và thời gian trong thơ trữ tình:
Không gian trong thơ trữ tình là nơi tác giả - cái tôi trữ tình hoặc nhân vật trữ tình xuất hiện để thổ lộ tấm long cũa mình. Không gian thường gắn với địa điểm chỉ nơi chốn như: cây đa, bến đò,mái đình, giếng nước, núi cao, biển sâu, trời rộng , song dài… Nhiều địa danh riêng đã trở thành những không gian tượng trưng văn học như: Tiêu tương, Tầm Dương, Cô Tô, Xích Bích, Tây Thiên, Địa Ngục, Thiên Đường, Bồng Lai, Tiên Cảnh, Cõi Phật, SuốI vàng….
Khi đọc tác phẩm Văn Học, chúng ta cnầ chú ý xem nhà văn mô tả không gian ở đây có gì đặc biệt, không gian ấy có ý nghĩa gì và nói được nội dung gì sâu sắc qua không gian đó.
III.	TIẾN HÀNH DẠY MỘT TÁC PHẨM TRỮ TÌNH BAO GỒM CÁC BƯỚC SAU
1.	Học sinh đọc tác phẩm, giáo viên nhận xét và uốn nắn cách đọc theo đúng thể thơ
2.	Giáo viên hướng dẫn học sinh quan sát và đọc kỹ tác phẩm bằng mắt một lần nữa cho đúng thể thơ và nhịp thơ.
3.	Giáo viên cho học sinh tìm hiểu nghệ thuật ngôn từ (cách dùng từ của tác giả) trong bài thơ, đoạn thơ đó.
4.	Giáo viên cho học sinh tìm hiểu vần thơ, nhịp thơ, từ ngữ và các biện pháp tu từ. Đây là bước giáo viên có thể dừng lại để tìm hiểu kỹ và thấy được nộI dung mà tác giả thể hiện trong bài thơ đó, đoạn thơ đó. Vì sao tác giả lại có cách chọn các thể thơ đó trong bài và cách gieo vần, ngắt nhịp… qua đó để toát lên được nội dung của tác phẩm.
5.	Giáo viên hướng dẫn học sinh tìm hiểu không gian và thời gian nghệ thuật được tác giả sử dụng trong câu thơ, khổ thơ, bài thơ đó như thế nào?
6.	Giáo viên hướng dẫn học sinh tổng kết đánh giá tác phẩm về hai mặt nộI dung và nghệ thuật
	VD:	Dạy bài thơ “Lượm” của Tố Hữu.
	a.	Đọc (chú ý nhấn mạnh giọng đọc vui tươi, nhẹ nhàng ở đoạn đầu và cuối, đoạn giữa của bài thơ đọc với giọng tự hào, trầm lắng thể hiện tâm trạng hình ảnh của nhà thơ khi nghe tin Lượm hi sinh.
	b.	Cho học sinh quan sát và phát hiện thể thơ mà tác giả sử dụng trong bài. Giáo viên hỏi: Vì sao tác giả lại chọn thể thơ 4 chữ? nhằm mục đích gì? Đối với câu hỏi này giúp học sinh tìm hiểu thể thơ phù hợp với nội dung biểu đạt. Mỗi thể thơ có mấy câu? Và vì sao có khổ có 4 câu, khổ 1 câu, khổ 2 câu để làm gì? Tìm hiểu nhịp thơ qua một số khổ, đa số là nhịp 2/2 và khổ có 4 câu là nhiều. Giáo viên cho học sinh so sánh giữa cách đọc khổ 4 câu với khổ thơ đọc 2 câu mỗi câu chỉ có 2 chữ và khổ thơ chỉ có 1 câu và 4 từ để thấy được cách ngắt nhịp của nhà thơ.
	c.	Giáo viên cho học sinh tìm hiểu cách gieo vần trong bài thơ mà tác giả sử dụng chủ yếu là từ láy và vần lưng gieo liên tiếp ở cuối câu thơ. Đặc biệt khổ thơ chỉ có hai câu.
	“Ra thế
	Lượm ơi!…
	Câu thơ gãy nhịp làm đôi tạo lên một tiếng kêu đau đớn, đột ngột, cả khổ thơ vỡ vụn đã thể hiện được nỗi đau tan nát, tiếng khóc đứt đoạn, nghẹn tắc trước cái chết của chú bé Lượm không gì hàn gắn được trong trái tim Tố Hữu.
	d.	Cuối cùng giáo viên cho học sinh tìm hiểu không gian và thời gian nghệ thuật trong bài thơ, khổ thơ cụ thể.
IV.	NHỮNG ĐIỂM CẦN LƯU Ý KHI DẠY THƠ TRỮ TÌNH.
1.	Đối với học sinh lớp 6, 7, 8, 9 các em sinh ra và lớn lên trong môi trường rất tốt đẹp. Vì vậy mà chưa có sự trải nghiệm, cho nên khi học những tác phẩm thơ trữ tình các em cảm nhận sẽ hời hợt, thiếu sâu sắc. Đây là một điều rất khó thành công cho giáo viên khi dạy tác phẩm thơ. Chính vì vậy giáo viên phải dẫn dắt làm sao cho phù hợp để học sinh có cảm nhận tốt hơn. Đặc biệt với phương pháp dạy học mới.
2.	Phân tích thơ trữ tình chính là chỉ ra tiếng lòng sâu thẳm của nhà thơ, điều này càng khó hơn khi đối tượng là học sinh lớp 6, 7 các em còn quá nhỏ khi tiếp xúc với điều này. Vì vậy giáo viên cần linh hoạt trong cách khai thác thơ trữ tình.
KẾT LUẬN
Trên đây là một vài ý kiến vầ vấn đề dạy học nhóm bài về thơ trữ tình ở phân môn văn học. Song nếu giáo viên biết vận dụng một cách triệt để các yếu tố trên thì hoạt động của thầy và trò trên lớp sẽ có chất lượng hơn, học sinh dễ dàng nắm bắt kiến thức, cảm nhận tốt hơn khi tiếp xúc với thơ trữ tình.


	


File đính kèm:

  • docChuyen de Mot so hinh thuc nghe thuat can chu y khi phan tich tac pham.doc