Chuyên đề Phương pháp dạy học kể chuyện cho học sinh Tiểu học
Bạn đang xem nội dung tài liệu Chuyên đề Phương pháp dạy học kể chuyện cho học sinh Tiểu học, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Chủ đề 8 PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC KỂ CHUYỆN CHO HỌC SINH TIỂU HỌC I. Hoạt động Hoạt động 1. Phân tích vị trí, nhiệm vụ của dạy học Kể chuyện Thông tin cơ bản 1. Kể chuyện là gì? Kể là một động từ biểu thị hành động nói. Từ điển tiếng Việt (Văn Tân chủ biên) giải thích kể là nói rõ đầu đuôi, và nêu ví dụ: kể chuyện cổ tích. Khi ở vị trí một thuật ngữ, kể chuyện bao hàm bốn phạm trù ngữ nghĩa sau: a) Chỉ loại hình tự sự trong văn học (phân biệt với loại hình trữ tình, loại hình kịch) – còn gọi là truyện hoặc tiểu thuyết. b) Chỉ tên một phương pháp nói trong diễn giảng. c) Chỉ tên một loại văn thuật chuyện trong môn Tập làm văn. d) Chỉ tên một phân môn được học ở các lớp trong trường Tiểu học. ở phạm trù ngữ nghĩa a) Văn kể chuyện là văn trong truyện hoặc trong tiểu thuyết. Do đó, đặc điểm của văn kể chuyện cũng là đặc điểm của truyện. Đặc trưng cơ bản của truyện là tình tiết, tức là có sự việc đang xảy ra, đang diễn biến, có nhân vật với ngôn ngữ, tâm trạng, tính cách riêng. ở phạm trù ngữ nghĩa b) Kể chuyện là một phương pháp trực quan sinh động bằng lời nói. Khi cần thay đổi hình thức diễn giảng nhằm thu hút sự chú ý của người nghe, người ta cũng xen kẽ phương pháp kể chuyện. Với các môn khoa học tự nhiên, kể chuyện thường được dùng trong phần kể về tiểu sử tác giả, miêu tả quá trình phát minh, sáng chế, quá trình phản ứng hóa học... ở phạm trù ngữ nghĩa c) Văn kể chuyện là một loại văn mà HS phải được luyện tập diễn đạt bằng miệng hoặc bằng viết thành bài theo những quy tắc nhất định. Vì tính chất phổ biến và ứng dụng rộng rãi của loại văn này nên nó trở thành loại hình cần được rèn kĩ năng, kĩ xảo bên cạnh các loại hình văn miêu tả, văn nghị luận. ở phạm trù ngữ nghĩa d) Kể chuyện là một môn học của các lớp Tiểu học trường Phổ thông. Có người hiểu đơn giản kể chuyện chỉ là kể chuyện dân gian, kể chuyện cổ tích. Thực ra không hẳn như vậy, kể chuyện ở đây bao gồm việc kể nhiều loại truyện khác nhau, kể cả truyện cổ và truyện hiện đại, nhằm mục đích giáo dục, giáo dưỡng, rèn kĩ năng nhiều mặt của một con người. Sở dĩ có thể xác định “kể chuyện” là một thuật ngữ vì nó có một kết cấu âm tiết ổn định, một phạm trù ngữ nghĩa (còn gọi là khái niệm) nhất định. Lâu nay, thuật ngữ “kể chuyện” vẫn được dùng với ý nghĩa kể một câu chuyện bằng lời, kể cả câu chuyện có hình thức hoàn chỉnh, được in trên sách báo. (Xem Chu Huy, Dạy Kể chuyện ở trường Tiểu học, NXB Giáo dục, 2000, trang 11- 12) 2. Vai trò của truyện và kể chuyện trong cuộc sống con người Nhu cầu hiểu biết khám phá thế giới là nhu cầu rất lớn của con người. Con người không chỉ muốn biết những gì đang xảy ra hoặc sắp xảy ra, mà còn muốn hiểu biết những gì đã xảy ra trong quá khứ (quá khứ gần, quá khứ xa và rất xa trong lịch sử). Hàng ngày, do vô tình hay cố ý, ta được thông tin về đủ mọi chuyện trong nhà, ngoài ngõ, rộng hơn là trong vùng, trong nước và trên thế giới ngày nay hay ngày xưa. Từ những chuyện lớn, chuyện nhỏ ta nghe kể từ tuổi ấu thơ bên bếp lửa của bà, đến những điều nghe thầy cô, bạn bè kể, bình giảng ở trường, nhờ đó sự hiểu biết về thế giới và con người cứ tăng dần lên theo năm tháng. Thuở hồng hoang của lịch sử loài người cũng vậy. Những bộ tộc nguyên thủy tập hợp lại ngày này sang tháng khác nghe kể cổ tích (kể khan như người Tây Nguyên hiện nay), cúng mo (người Mường), sau này nghe những người hát rong kể chuyện phiêu lưu, ma quái... ở Trung Quốc ngày xưa có những người kể chuyện lấy tiền (thuyết thoại nhân) ở xó chợ, quán xá... ở vùng sa mạc Tây á, Bắc Phi, những truyện kể suốt ngày này qua ngày khác trên lưng lạc đà của các thương nhân, sau này thành bộ truyện cổ tích Nghìn lẻ một đêm, những truyện trào tiếu dân gian thời Trung cổ ở Tây Âu được nhiều người sưu tập lại, trong đó có những truyện trong sách của Rabelais, Boccacio... Cuối cùng, do nghề in ấn phát triển, lối kể bằng miệng được thay bằng sách in phát hành khắp nơi và thể tiểu thuyết ra đời (ở Trung Quốc nghề in ấn phát triển sớm hơn). Tiểu thuyết trở thành thể loại tự sự phổ biến rộng khắp mà Hegel ví như là “anh hùng ca của tầng lớp thị dân”. Trong những thế kỉ gần đây, những thành tựu tiểu thuyết thật vĩ đại với các tên tuổi: M. Cervantes, G. Stendhal, G. Flaubert, V. Hugo, L. Tolstoi, F.Đostoievski, M. Gorki, M. Solokhov... ở châu Âu; La Quán Trung, Thi Nại Am, Tào Tuyết Cần... ở châu á. Tiểu thuyết đáp ứng đầy đủ các nhu cầu nhận thức, giáo huấn của con người hiện đại. Kho tàng kể chuyện nói chung và tiểu thuyết nói riêng là một trong những thành tựu vĩ đại nhất của loài người. Trước khi có các phương tiện truyền thông hiện đại như phim ảnh, băng hình... thì nhờ tiểu thuyết mà con người có thể biết mọi chuyện từ quá khứ đến hiện tại, từ đông sang tây... và khám phá thế giới bên trong của con người một cách sinh động, sâu sắc, cụ thể mà không một phương tiện nào có thể làm được. (Nguyễn Thái Hòa, Những vấn đề thi pháp của truyện, NXB Giáo dục, 2000, trang 5- 6) Kể chuyện là một hình thức thông tin nhanh gọn, truyền cảm bằng ngôn ngữ. Mặc dù đã có những phương tiện thông tin đại chúng hiện tại như ti vi, đài phát thanh, rađiô cát xét, người ta vẫn thích nghe nói chuyện bằng miệng. Theo định nghĩa rộng, thuật ngữ “kể chuyện” có thể bao hàm toàn bộ ngôn ngữ nói sinh hoạt hàng ngày. Chủ tịch Hồ Chí Minh thường dạy: “Tiếng nói là thứ của cải vô cùng lâu đời và vô cùng quý báu. Chúng ta phải biết quý trọng nó, giữ gìn nó, phát triển nó”. Nhờ có tiếng nói và lao động mà con người thoát hẳn khỏi đời sống động vật, vươn lên làm chủ bản thân, làm chủ xã hội, làm chủ thiên nhiên. Bầy người nguyên thủy quây quanh đám lửa trại nướng thịt thú rừng, nướng quả hạt thường kể những truyện săn, bắt, hái, lượm cho nhau nghe. Đó cũng là khởi đầu của sự tích lũy tri thức khoa học và kể chuyện ở đây mang chức năng thông tin. Khi ngôn ngữ ngày càng phát triển, số lượng từ cơ bản tăng lên, đời sống vật chất và tinh thần ngày một phong phú thì kể chuyện không chỉ dừng ở mức độ thông tin nữa mà mang thêm chức năng giải trí, hay cao hơn nữa là chức năng nghệ thuật. Nhờ vậy mà kho tàng đồ sộ truyện cổ dân gian hết sức giàu có, hết sức đa dạng được truyền lại đến ngày nay bằng hình thức kể. Trải qua 10 thế kỉ Bắc thuộc, dân tộc Việt Nam sở dĩ bảo toàn bản lĩnh và bản sắc dân tộc độc đáo, không bị phong kiến phương Bắc xâm lược, đồng hóa thôn tính, một phần là nhờ ở hùng khí những câu chuyện cổ. Chùm truyền thuyết về Âu Cơ, Lạc Long Quân, về Hùng Vương, về Thánh Gióng, về Sơn Tinh Thủy Tinh, về An Dương Vương, về bánh chưng bánh giầy, về An Tiêm... đã nhem nhóm niềm tin tất thắng về một tương lai của cả một dân tộc bị ngoại bang thống trị. Cho đến năm 939, với chiến thắng của Ngô Quyền, dân tộc ta đã bẻ gãy cái vòng xiềng xích “quận huyện” của bọn phong kiến nhà Hán. Ta lại là ta, ta là dân tộc Việt Nam chứ không thể là ai khác. Chùm truyện cổ về háo khí dân tộc ấy nhờ vậy mà được bảo tồn và phát triển mãi mãi bằng hình thức truyền miệng. Trong một thời gian lịch sử lâu dài, khi đã có văn tự để ghi chép, in ấn rồi thì kể chuyện vẫn còn tồn tại và tiếp tục phát triển song song với sự phát triển của văn tự. (Chu Huy, Tài liệu đã dẫn, trang 12-13) 3. Vai trò của truyện và kể chuyện trong đời sống trẻ em Những truyện kể, truyện dân gian là một trong những hình thức nhận thức thế giới của các em, giúp các em chính xác hóa những biểu tượng đã có về thực tế xã hội xung quanh, từng bước cung cấp thêm những khái niệm mới và mở rộng kinh nghiệm sống cho các em. Những tác phẩm ấy giúp cho các em xác lập một thái độ đối với các hiện tượng của đời sống xung quanh. “Truyện cổ tích gắn liền với cái đẹp góp phần phát triển các cảm xúc thẩm mĩ mà thiếu chúng không thể có tâm hồn cao thượng, lòng mẫn cảm chân thành trước nỗi bất hạnh, đau đớn và khổ ải của con người. Nhờ có truyện cổ tích, trẻ nhận thức được thế giới không chỉ bằng trí tuệ mà còn bằng trái tim. Và trẻ em không phải chỉ có nhận thức mà còn đáp ứng lại sự kiện và hiện tượng của thế giới xung quanh, tỏ thái độ của mình với các điều thiện và ác. Truyện cổ tích cung cấp cho trẻ những biểu tượng đầu tiên về chính nghĩa và phi nghĩa. Giai đoạn đầu tiên của giáo dục lí tưởng cũng diễn ra nhờ có truyện cổ tích. Truyện cổ tích là ngọn nguồn phong phú và không gì thay thế được để giáo dục tình yêu Tổ quốc”. (Chu Huy, Tài liệu đã dẫn, trang 14-15) Puskin từng thổ lộ: “ Buổi tối tôi nghe kể chuyện cổ tích và lấy việc đó bù đắp những thiếu sót trong sự giáo dục đáng nguyền rủa của mình. Mỗi truyện cổ tích ấy mới đẹp làm sao, mỗi truyện là một bài ca”. (Dẫn theo Nguyễn Trí, Giáo trình Phương pháp dạy học Tiếng Việt 2, NXB ĐHSP, 2004) 4. Kĩ năng nghe - nói trong chương trình và chuẩn trình độ tiếng Việt của học sinh Tiểu học Nhiệm vụ của hoạt động 1 - Đọc tài liệu, thảo luận nhóm làm rõ vị trí của phân môn Kể chuyện. - Thảo luận nhóm xác định và phân tích nhiệm vụ của dạy học Kể chuyện. Đánh giá hoạt động 1 1. Nêu vị trí của phân môn Kể chuyện. 2. Nêu và phân tích nhiệm vụ của phân môn Kể chuyện. Hoạt động 2. Mô tả nội dung dạy học Kể chuyện Thông tin cơ bản - Chương trình phân môn Kể chuyện và kĩ năng nghe - nói. - SGK Tiếng Việt lớp 1 → 5. Nhiệm vụ của hoạt động 2 - Đọc tài liệu, phân tích chương trình dạy học Kể chuyện. - Thảo luận nhóm, mô tả, nhận xét nội dung các kiểu dạng bài kể chuyện. Đánh giá hoạt động 2 1. Mô tả chương trình, SGK dạy học Kể chuyện: phân bố thời gian số tiết, nêu và phân tích các kiểu dạng bài dạy Kể chuyện. 2. Nêu và phân tích các kiểu dạng bài dạy Kể chuyện. Hoạt động 3. tổ chức dạy học Kể chuyện ở tiểu học Thông tin cơ bản - Phần Kể chuyện trong SGK; - Phần Kể chuyện trong SGV; - Một số băng ghi hình giờ dạy Kể chuyện. Nhiệm vụ của hoạt động 3 - Kể mẫu một truyện đã đọc, đã nghe, một truyện đã chứng kiến, tham gia. - Thiết kế các kiểu bài dạy Kể chuyện. - Tổ chức dạy các kiểu bài Kể chuyện. Đánh giá hoạt động 3 1. Hãy kể mẫu một truyện đã đọc, một truyện đã nghe, một chuyện đã chứng kiến hoặc tham gia. 2. Nêu quy trình tổ chức các kiểu bài dạy Kể chuyện. 3. Soạn ba giáo án Kể chuyện. 4. Thực hành dạy một giờ Kể chuyện. 5. Dự giờ Kể chuyện, ghi chép, nhận xét, đánh giá giờ dạy của đồng nghiệp. Thông tin phản hồi chủ đề 8 I. Vị trí, nhiệm vụ của dạy học Kể chuyện 1. Vị trí của phân môn Kể chuyện Cũng như TLV, Kể chuyện có vị trí đặc biệt trong dạy học tiếng mẹ đẻ, trước hết vì hành động kể là một hành động “nói” đặc biệt trong hoạt động giao tiếp. Kể chuyện vận dụng một cách tổng hợp sự hiểu biết về đời sống và tạo điều kiện để HS rèn luyện một cách tổng hợp các kĩ năng tiếng Việt như nghe, đọc, nói trong hoạt động giao tiếp. Khi nghe thầy giáo kể chuyện, HS đã tiếp nhận tác phẩm văn học ở dạng lời nói có âm thanh. Khi HS kể chuyện là các em đang tái sản sinh hay sản sinh một tác phẩm nghệ thuật ở dạng lời nói. Vì truyện là một tác phẩm văn học nên kể chuyện có được cả sức mạnh của văn học. Truyện có khả năng bồi dưỡng tâm hồn trẻ thơ. Sự hiểu biết về cuộc sống, về con người, tâm hồn, tình cảm của các em sẽ nghèo đi biết bao nhiêu nếu không có môn học Kể chuyện trong trường học. Vì vai trò của hành động kể và sản phẩm truyện, phân môn Kể chuyện có vị trí rất quan trọng trong dạy học Tiếng Việt. 2. Nhiệm vụ của phân môn Kể chuyện Phân môn Kể chuyện có nhiệm vụ đáp ứng nhu cầu được nghe kể chuyện ở trẻ em, phát triển ngôn ngữ, đặc biệt là kĩ năng nghe – nói, đồng thời phát triển tư duy và bồi dưỡng tâm hồn, làm giàu vốn sống và vốn văn học cho HS. 2.1. Phân môn Kể chuyện phát triển các kĩ năng tiếng Việt cho HS Trước hết, phân môn Kể chuyện phát triển kĩ năng nói cho HS. Giờ kể chuyện rèn cho HS kĩ năng nói trước đám đông dưới dạng độc thoại thành đoạn bài theo phong cách nghệ thuật. Đồng thời với nói, các kĩ năng nghe, đọc, kĩ năng ghi chép cũng được phát triển trong quá trình kể lại truyện đã nghe, kể lại truyện đã đọc. 2.2. Phân môn Kể chuyện góp phần phát triển tư duy, đặc biệt là tư duy hình tượng và cảm xúc thẩm mĩ ở HS Cùng với sự rèn luyện các kĩ năng ngôn ngữ, tư duy cũng được phát triển. Đặc biệt, sống trong thế giới các nhân vật, thâm nhập vào các tình tiết của truyện, tiếp xúc với nghệ thuật ngôn từ kể chuyện, tư duy hình tượng và cảm xúc thẩm mĩ của HS cũng được phát triển. 2.3. Phân môn Kể chuyện góp phần tích lũy vốn sống, vốn văn học cho HS Giờ kể chuyện giúp HS tiếp xúc với tác phẩm văn học. Suốt 5 năm ở bậc Tiểu học, HS được nghe và tham gia kể hàng trăm câu chuyện với đủ thể loại. Đó là những tác phẩm có giá trị của Việt Nam và thế giới, từ truyện cổ tích đến truyện hiện đại. Nhờ đó, vốn văn học của HS được tích lũy dần. Đây là những hành trang quý sẽ theo các em trong suốt cuộc đời mình. Giờ kể chuyện còn mở rộng tầm hiểu biết, khêu gợi trí tưởng tượng cho các em. Qua từng câu chuyện, thế giới muôn sắc màu mở rộng trước các em. Các em tìm thấy ở trong truyện từ phong tục tập quán đến cảnh sắc thiên nhiên, từ những thân phận và biết bao hành động nghĩa hiệp của con người trong muôn vàn trường hợp khác nhau. Truyện kể đã làm tăng vốn hiểu biết về thế giới và xã hội loài người xưa và nay cho HS. Truyện kể còn chắp cánh cho trí tượng tượng và ước mơ của HS, thúc đẩy sự sáng tạo ở các em. (Xem Nguyễn Trí, sách đã dẫn, trang 173) II. Nội dung dạy học Kể chuyện 1. Kể chuyện được dạy ở tất cả các lớp của bậc Tiểu học Chương trình Kể chuyện ở Tiểu học được phân bố theo các lớp như sau: - ở lớp 1, trong phần Học vần chưa có giờ kể chuyện riêng, nhưng từ phần Luyện tập tổng hợp (bắt đầu từ tuần 23), mỗi tuần có 1 tiết Kể chuyện. - ở lớp 2, mỗi tuần có 1 tiết Kể chuyện. - ở lớp 3, mỗi tuần 0,5 tiết Kể chuyện, học chung trong 1 tiết với bài tập đọc đầu tuần. - ở lớp 4, 5, mỗi tuần có 1 tiết Kể chuyện. 2. Yêu cầu về kĩ năng kể chuyện 2.1. Yêu cầu về kĩ năng kể chuyện cho HS lớp 1 là sau khi nghe thầy cô kể 2, 3 lần một câu chuyện đơn giản, phù hợp với trình độ và đặc điểm lứa tuổi, các em phải nắm được nội dung chính của câu chuyện và dựa vào trí nhớ, vào các tranh minh họa trong SGK, các câu hỏi dưới tranh, kể lại được từng đoạn của câu chuyện. 2.2. ở các lớp 2, 3 kĩ năng nghe kể vẫn tiếp tục được rèn luyện. Đó là các kĩ năng độc thoại và hội thoại nhưng với yêu cầu cao hơn so với lớp 1. ở lớp 2, 3, trong độc thoại có thêm yêu cầu HS kể bằng lời của mình, kể có thêm một hai chi tiết sáng tạo. Trong hội thoại có thêm yêu cầu dựng lại câu chuyện đã học theo vai, bước đầu sử dụng các yếu tố phụ trợ trong giao tiếp (nét mặt, cử chỉ, điệu bộ ...). ở lớp 3, khi rèn kĩ năng độc thoại có thêm yêu cầu kể lại truyện theo lời một nhân vật. 2.3. ở lớp 4, 5, HS vẫn tiếp tục được củng cố kĩ năng kể chuyện đã được hình thành từ lớp dưới, đồng thời được hình thành những kĩ năng mới. Nội dung các câu chuyện được kể ở lớp 4, 5 đã phong phú hơn, độ dài lớn hơn. So với lớp 2, 3, có thêm yêu cầu mới là HS kể lại các truyện đã nghe, đã đọc ngoài giờ Kể chuyện. Nhiều đề bài chỉ nêu ý nghĩa của câu chuyện mà không chỉ rõ các chuyện cụ thể. Ngoài ra, HS còn phải kể lại được các chuyện đã chứng kiến hoặc tham gia. 3. Các bài học Kể chuyện Dựa vào nguồn tư liệu được dùng để kể, các bài học Kể chuyện được chia làm ba loại: kể chuyện theo tranh, kể chuyện đã nghe, đã đọc (loại bài này được chia làm hai dạng: kể chuyện đã nghe và kể chuyện đã đọc), kể chuyện được chứng kiến, tham gia. 3.1. ở lớp 1, trong giai đoạn Học vần, cuối mỗi tiết ôn tập, HS đã bắt đầu được nghe kể những câu chuyện đơn giản có tên truyện gắn với với các vần mới học và tập kể một vài câu về nội dung câu chuyện dựa theo tranh minh họa. Đó là các truyện: Hổ, Cò đi lò dò, Thỏ và Sư tử, Tre ngà, Khỉ và Rùa, Cây khế, Sói và Cừu, Chia phần, Quạ và Công, Chuột nhà và Chuột đồng, Anh chàng ngốc và con ngỗng vàng. Phần Luyện tập tổng hợp được học trong 13 tuần, trừ tuần ôn tập, mỗi tuần có 1 tiết kể chuyện, đó là những truyện sau: Rùa và Thỏ, Cô bé trùm khăn đỏ, Trí khôn, Sư tử và Chuột nhắt, Bông hoa cúc trắng, Niềm vui bất ngờ, Sói và Sóc, Dê con nghe lời mẹ, Con rồng cháu tiên, Tình bạn, Hai tiếng kì lạ, Sự tích dưa hấu. Những câu chuyện được kể ở lớp 1 có nội dung giản dị, dễ hiểu nhằm bồi dưỡng cho HS những phẩm chất, những nét tính cách quan trọng, đưa ra những lời khuyên cần thiết và bổ ích. Ví dụ: không chủ quan, kiêu ngạo, phải biết kiên trì và nhẫn nại (Rùa và Thỏ), phải vâng lời cha mẹ, đi đến nơi về đến chốn, không la cà dọc đường dễ bị kẻ xấu làm hại (Cô bé trùm khăn đỏ), phải biết quý tình bạn (Cô chủ không biết quý tình bạn), biết nói năng lịch sự (Hai tiếng kì lạ), biết tự lực cánh sinh (Sự tích dưa hấu)... 3.2. Bài học kể chuyện lớp 2 Kể chuyện ở lớp 2 gắn bó chặt chẽ với phân môn Tập đọc. ở lớp 2, nội dung cả 31 tiết Kể chuyện đều là kể lại những câu chuyện HS đã học trong bài tập đọc ở hai tiết mở đầu mỗi tuần. Hệ thống 31 văn bản tập đọc - kể chuyện chọn vào SGK Tiếng Việt 2 đều có nội dung phù hợp với chủ điểm của từng đơn vị học, với tâm lí trẻ lớp 2 và được biên soạn lại cho phù hợp với trình độ của các em. Các bài học kể chuyện ở lớp 2 được phân bố theo từng tuần như sau: Học kì I: 1. Có công mài sắt có ngày nên kim 2. Phần thưởng 3. Bạn của Nai nhỏ 4. Bím tóc đuôi sam 5. Chiếc bút mực 6. Mẩu giấy vụn 7. Người thầy cũ 8. Người mẹ hiền 9. Ôn tập 10. Sáng kiến của bé Hà 11. Bà cháu 12. Sự tích cây vú sữa 13. Bông hoa niềm vui 14. Câu chuyện bó đũa 15. Hai anh em 16. Con chó nhà hàng xóm 17. Tìm ngọc 18. Ôn tập Học kì II: 19. Chuyện bốn mùa 20. Ông Mạnh thắng Thần gió 21. Chim sơn ca và bông cúc trắng 22. Một trí khôn hơn trăm trí khôn 23. Bác sĩ Sói 24. Quả tim khỉ 25. Sơn Tinh Thủy Tinh 26. Tôm càng và cá con 27. Ôn tập 28. Kho báu 29. Những quả đào 30. Ai ngoan sẽ được thưởng 31. Chiếc rễ đa tròn 32. Chuyện quả bầu 33. Bóp nát quả cam 34. Người làm đồ chơi 35. Ôn tập Những câu chuyện trong các bài học góp phần quan trọng hình thành ở trẻ nhận thức đúng đắn về thế giới xung quanh và trách nhiệm của bản thân các em, từ những chuyện lớn lao như quan hệ giữa con ngưòi với thiên nhiên (con người biết chinh phục thiên nhiên nhưng cũng phải biết sống hòa hợp với thiên nhiên: Ông Mạnh thắng Thần Gió), bảo vệ môi trường (chim chóc, hoa cỏ cũng có cuộc sống riêng của chúng, đừng làm hại chúng: Chim sơn ca và bông cúc trắng), đoàn kết dân tộc (các anh em trên đất nước ta đều chung một gốc: Chuyện quả bầu) đến tình cảm gia đình (biết quan tâm đến ông bà: Sáng kiến của bé Hà; biết vâng lời cha mẹ: Sự tích cây vú sữa; anh em phải yêu thương, đùm bọc nhau: Câu chuyện bó đũa, Hai anh em), bạn bè (bạn tốt là người dám hi sinh vì bạn: Bạn của Nai Nhỏ; những kẻ giả dối, bội bạc thì không có bạn: Quả tim khỉ; không nên đùa ác với bạn, cần đối xử tốt với các bạn gái: Bím tóc đuôi sam); đức kiên trì, nhẫn nại (kiên trì nhẫn nại thì sẽ thành công: Có công mài sắt có ngày nên kim),... 3.3. Bài học kể chuyện lớp 3 Kể chuyện ở lớp 3 cũng gắn bó chặt chẽ với phân môn Tập đọc. ở lớp 3, các bài kể chuyện được học trong 0,5 tiết, đều là kể lại những câu chuyện HS đã học trong bài tập đọc đầu mỗi tuần. Các bài học Kể chuyện ở lớp 3 được phân bố theo từng tuần như sau: Học kì I: 1. Cậu bé thông minh 2. Ai có lỗi? 3. Chiếc áo len 4. Người mẹ 5. Người lính dũng cảm 6. Bài tập làm văn 7. Trận bóng dưới lòng đường 8. Các em nhỏ và cụ già 9. Ôn tập 10. Giọng quê hương 11. Đất quý đất yêu 12. Nắng phương Nam 13. Người con của Tây Nguyên 14. Người liên lạc nhỏ 15. Hũ bạc của người cha 16. Đôi bạn 17. Mồ côi xử kiện 18. Ôn tập Học kì II: 19. Hai Bà Trưng 20. ở lại với chiến khu 21. Ông tổ nghề thêu 22. Nhà bác học và bà cụ 23. Nhà ảo thuật 24. Đối đáp với vua 25. Hội vật 26. Sự tích lễ hội Chử Đồng Tử 27. Ôn tập 28. Cuộc chạy đua trong rừng 29. Buổi học thể dục 30. Gặp gỡ ở Lúc-xăm-bua 31. Bác sĩ Y-éc-xanh 32. Người đi săn và con vượn 33. Cóc kiện trời 34. Sự tích chú Cuội cung trăng 35. Ôn tập So với lớp 2, những câu chuyện học ở lớp 3 có nội dung rộng hơn và tình tiết phức tạp hơn. Bên cạnh những truyện về tình cảm gia đình, thầy trò, bạn bè, làng xóm, HS còn được học về gương chiến đấu của các anh hùng liệt sĩ trong lịch sử, gương lao động của các nhà khoa học, các nghệ sĩ, các vận động viên thể thao, về tình hữu nghị của các dân tộc, về công cuộc chinh phục thiên nhiên và bảo vệ môi trường... Qua những câu chuyện này, HS có được vốn từ phong phú, đa dạng hơn, hiểu biết và năng lực suy nghĩ của các em cũng được nâng lên một mức cao hơn hẳn lớp 2. 3.4. Các dạng bài học Kể chuyện ở lớp 4, 5 ở lớp 4, 5 có ba dạng bài học kể chuyện: kể chuyện đã nghe thầy cô kể trên lớp; kể chuyện đã nghe, đã đọc; kể chuyện đã được chứng kiến, tham gia. Kiểu bài nghe - kể lại câu chuyện vừa nghe thầy, cô kể trên lớp được thực hiện ở tuần thứ nhất trong một chủ điểm 3 tuần học. Trong trường hợp này, câu chuyện (có độ dài khoảng trên dưới 500 chữ) được in trong SGV, trình bày thành tranh hoặc tranh kèm lời dẫn giải ngắn gọn trong SGK. Câu chuyện được thầy, cô kể cho HS nghe, rồi HS kể lại. Bên cạnh mục đích chung là rèn kĩ năng cho HS, kiểu bài này còn có mục đích rèn kĩ năng nghe. ở nhiều bài có thêm điểm tựa để nhớ truyện là tranh minh họa và gợi ý dưới tranh. Kiểu bài kể lại câu chuyện đã nghe, đã đọc ngoài giờ kể chuyện yêu cầu HS phải tự sưu tầm trong sách báo hoặc trong đời sống hằng ngày (nghe người thân hoặc ai đó kể) để kể lại. Kiểu bài này trước đây chỉ có trong giờ TLV. Bên cạnh mục đích chung là rèn kĩ năng nói cho HS, kiểu bài kể lại câu chuyện đã nghe, đã đọc ngoài giờ kể chuyện còn có mục đích kích thích HS ham đọc sách. Kiểu bài kể lại câu chuyện đã được chứng kiến hoặc tham gia yêu cầu HS kể những chuyện người thật, việc thật có trong cuộc sống xung quanh mà các em đã biết, đã thấy, cũng có khi chính các em là nhân vật của câu chuyện. Kiểu bài này trước đây chỉ có trong giờ TLV. Các bài kể chuyện được chứng kiến hoặc tham gia rất đa dạng vì chúng gắn với các chủ điểm của sách. Bên cạnh mục đích rèn luyện kĩ năng nói, kiểu bài kể chuyện được chứng kiến, tham gia còn có mục đích rèn cho HS thói quen quan sát, ghi nhớ. So với các câu chuyện ở lớp 2, 3 thì các chuyện ở lớp 4, 5 có độ dài lớn hơn, tình tiết phức tạp hơn, nội dung sâu sắc hơn. Những câu chuyện này nói về những phẩm chất tốt đẹp mà con người cần phải rèn luyện gắn với các chủ điểm học tập. Các bài học Kể chuyện lớp 4 được phân bố theo các tuần học như sau: Học kì I: 1. Kể chuyện đã nghe thầy cô kể trên lớp (Sự tích hồ Ba Bể) 2. Kể chuyện đã nghe, đã đọc (Đọc bài thơ Nàng tiên ốc và kể lại) 3. Kể chuyện đã nghe, đã đọc (Kể một câu chuyện về lòng nhân hậu) 4. Kể chuyện đã nghe thầy cô kể trên lớp (Một nhà thơ chân chính) 5. Kể chuyện đã nghe, đã đọc (Kể một câu chuyện về tính trung thực) 6. Kể chuyện đã nghe, đã đọc (Kể một câu chuyện về lòng tự trọng) 7. Kể chuyện đã nghe thầy cô kể trên lớp (Lời ước dưới trăng) 8. Kể chuyện đã nghe, đã đọc (Kể một câu chuyện về những ước mơ đẹp hoặc những ước mơ viển vông, phi lí) 9. Kể chuyện được chứng kiến hoặc tham gia (Kể về một ước mơ đẹp của em hoặc của bạn bè, người thân) 10. Ôn tập 11. Kể chuyện đã nghe thầy cô kể trên lớp (Bàn chân kì diệu) 12. Kể chuyện đã nghe, đã đọc (Kể một câu chuyện về một người có nghị lực) 13. Kể chuyện được chứng kiến hoặc tham gia (Kể một câu chuyện thể hiện tinh thần kiên trì, vượt khó) 14. Kể chuyện đã nghe thầy cô kể trên lớp (Búp bê của ai) 15. Kể chuyện đã nghe, đã đọc (Kể một câu chuyện có nhân vật là những đồ chơi của trẻ em hoặc những con vật gần gũi với trẻ em) 16. Kể chuyện được chứng kiến hoặc tham gia (Kể một câu chuyện có liên quan đến đồ chơi của em hoặc của các bạn xung quanh) 17. Kể chuyện đã nghe thầy cô kể trên lớp (Một phát minh nho nhỏ) 18. Ôn tập Học kì II: 19. Kể chuyện đã nghe thầy cô kể trên lớp (Bác đánh cá và gã hung thần) 20. Kể chuyện đã nghe, đã đọc (Kể câu chuyện về một người có tài) 21. Kể chuyện được chứng kiến hoặc tham gia (Kể một câu chuyện về người có khả năng hoặc sức khỏe đặc biệt mà em biết) 22. Kể chuyện đã nghe thầy cô kể trên lớp (Con vịt xấu xí) 23. Kể chuyện đã nghe, đã đọc (Kể một câu chuyện ca ngợi cái đẹp hay phản ánh cuộc đấu tranh giữa cái đẹp với cái xấu, cái thiện với cái ác) 24. Kể chuyện được chứng kiến hoặc tham gia (Kể một câu chuyện về việc em (hoặc người xung quanh đã làm gì để góp phần giữ gìn xóm làng (đường phố, trường học) xanh, sạch, đẹp) 25. Kể chuyện đã nghe thầy cô kể trên lớp (Những chú bé không chết) 26. Kể chuyện đã nghe, đã đọc (Kể một câu chuyện nói về lòng dũng cảm) 27. Kể chuyện được chứng kiến hoặc tham gia (Kể một câu chuyện về lòng dũng cảm mà em được chứng kiến hoặc tham gia) 28. Ôn tập 29. Kể chuyện đã nghe thầy cô kể trên lớp (Đôi cánh của ngựa trắng) 30. Kể chuyện đã nghe, đã đọc (Kể một câu chuyện về du lịch hay thám hiểm) 31. Kể chuyện được chứng kiến hoặc tham gia (Kể câu chuyện về một cuộc du lịch hoặc cắm trại mà em được tham gia) 32. Kể chuyện đã nghe thầy cô kể trên lớp (Khát vọng sống) 33. Kể chuyện đã
File đính kèm:
- PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC KỂ CHUYỆN HỌC SINH TIỂU HỌC.doc