Đề cương ôn tập môn ngữ văn 11 – học kì II (2011 – 2012) Trường Thpt Vũng Tàu

doc19 trang | Chia sẻ: dethi | Lượt xem: 1325 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đề cương ôn tập môn ngữ văn 11 – học kì II (2011 – 2012) Trường Thpt Vũng Tàu, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
TRƯỜNG THPT VŨNG TÀU	LỚP 11A3

ĐỀ CƯƠNG ÔN TẬP 
MÔN NGỮ VĂN 11 – HKII (2011 – 2012)
š&›

A – TIẾNG VIỆT
CHỦ ĐỀ 1: NGHĨA CỦA CÂU

I. NGHĨA SỰ VIỆC
Xác định nghĩa sự việc trong câu, bằng cách loại bỏ những từ ngữ tình thái, như: hình như, có lẽ, ...
Chỉ ra chủ thể và từ ngữ biểu hiện.
Câu biểu hiện hành động/ trạng thái, tính chất, đặc điểm/ quá trình/ tư thế/ sự tồn tại/ quan hệ.
II. NGHĨA TÌNH THÁI
Xác định từ ngữ tình thái.
Nghĩa tình thái:
1. Sự nhìn nhận, đánh giá và thái độ của người nói đối với sự việc được đề cập đến trong câu:
Khẳng định tính chân thực của sự việc.
Phòng đoán sự việc với độ tin cậy cao hoặc với độ tin cậy thấp.
Đánh giá về mức độ hay số lượng đối với một phương diện nào đó của sự việc.
Đánh giá sự việc có thực hay không có thực, đã xảy ra hay chưa xảy ra.
Khẳng định tính tất yếu, sự cần thiết hay khả năng của sự việc.
2. Tình cảm, thái độ của người nói đối với người nghe
Tình cảm thân mật, gần gũi.
Thái độ bực tức, hách dịch.
Thái độ kính cẩn.

CHỦ ĐỀ 2: PHONG CÁCH NGÔN NGỮ CHÍNH LUẬN
***
Khẳng định một đoạn văn thuộc phong cách ngôn ngữ chính luận:
1. Các phương tiện diễn đạt:
Về từ ngữ: chỉ ra những từ ngữ chính trị có trong đoạn văn, như: độc lập, đồng bào, đa số, thực dân, phát xít, kháng chiến, bình đẳng, tự do, ...
Về ngữ pháp: chỉ ra sự logic trong đoạn văn qua các từ ngữ mang tính liên kết như: đó là, tuy nhiên, do vậy, bởi thế, tuy...nhưng, ...=> khẳng định các câu văn trong văn bản có kết cấu chuẩn mực, mạch lạc.
Về biện pháp tu từ: chỉ ra các biện pháp tu từ được sử dụng trong văn bản: điệp từ, điệp ngữ, so sánh, ước lệ, tượng trưng, nhân hóa, ...
2. Đặc trưng của phong cách ngôn ngữ chính luận:
Tính công khai về quan điểm chính trị: khẳng định văn bản đã thể hiện đường lối, quan điểm của người viết (nói) một cách công khai, dứt khoát, không che giấu, úp mở. Các từ ngữ được dùng được cân nhắc kĩ càng, thể hiện lập trường và quan điểm chính trị.
Tính chặt chẽ rrong diễn đạt và suy luận: khẳng định đoạn văn có hệ thống luận điểm chặt chẽ, từng ý, từng câu được phối hợp với nhau một cách hài hòa & mạch lạc.
Tính truyền cảm, thuyết phục: thể hiện ở giọng văn hùng hồn, tha thiết, bộc lộ thái độ của người viết. 






	B – VIẾT ĐOẠN VĂN NGHỊ LUẬN
CHỦ ĐỀ 1: NGHỊ LUẬN XÃ HỘI

1. Mở đoạn: Giới thiệu chung một cách trực tiếp về vấn đề cần nghị luận
2. Thân đoạn:
Giải thích về hiện tượng đó.
Nêu lên thực trạng của hiện tượng.
Chỉ ra nguyên nhân của hiện tượng.
Hậu quả của hiện tượng đó như thế nào (nếu hiện tượng đó là xấu).
Từ đó, đưa ra giải pháp khắc phục.
Trong đoạn văn, có thể liên hệ ngoài thực tiễn về một số khía cạnh. Bên cạnh đó, dẫn chứng phải phù hợp, sinh động, chân thực; số liệu thống kê phải chính xác và mới nhất.
3. Kết đoạn: Rút ra bài học và liên hệ bản thân.

CHỦ ĐỀ 2: NGHỊ LUẬN VỀ MỘT TƯ TƯỞNG, ĐẠO LÍ

1. Mở đoạn: Giới thiệu chung về vấn đề cần nghị luận
2. Thân đoạn:
Giải thích những từ ngữ quan trọng.
Phân tích những biểu hiện của tư tưởng, đạo lí ấy dùng dẫn chứng để chứng minh.
Phê phán những biểu hiện không tốt; ngược lại với tư tưởng, đạo lí đang nghị luận.
Rút ra ý nghĩa bài học.
3. Kết đoạn: Đánh giá, khẳng định lại tư tưởng, đạo lí.
Liên hệ đến văn học, hoặc gương người tốt việc tốt.
C – TÁC PHẨM VĂN HỌC. NHỮNG BÀI VĂN THAM KHẢO
CHỦ ĐỀ 1: VỘI VÀNG – XUÂN DIỆU

Đề Bài: Phân tích bài thơ “Vội vàng” của nhà thơ Xuân Diệu.

Bài Làm Tham Khảo
Ngay từ buổi đầu bước chân vào làng thơ, Xuân Diệu dường như đã tự chọn cho mình một lẽ sống: sống để yêu và tôn thờ Tình yêu! Phụng sự bằng trái tim yêu nồng cháy, tha thiết, bằng cuộc sống say mê và bằng việc “hăm hở” làm thơ tình! Nhắc đến Xuân Diệu, sẽ thật là thiếu sót nếu không kể tên “Vội vàng”, “Đây mùa thu tới”, và “Thơ duyên” trong tuyển tập “Thơ thơ” - đứa con đầu lòng mà “ông hoàng thơ tình” đã ban tặng cho nhân gian. Như một cái chạm tay khẽ nhẹ vào tâm hồn những người yêu thơ, thơ Xuân Diệu nhẹ nhàng và tinh tế như chính tác giả của nó, để lại trong tâm hồn người đọc một ấn tượng đậm nét và thật khó phôi pha về sự phóng túng, giàu có mà hết sức tinh tế trong đời sống nội tâm, tâm của hồn của cái "Tôi" trữ tình Xuân Diệu. Trong “Vội vàng”, Xuân Diệu đã tạo ra một khúc tình si say đắm ngọt ngào...thật đến từng hơi thở! 
[...]
Những vẻ đẹp của mùa xuân đâu chỉ của riêng Xuân Diệu. Từ nghìn năm tước, các bậc tiền bối đã có những vần thơ tràn trề về tình yêu đối với mùa xuân và cuộc sống. Nhưng yêu đến mức có những ham muốn táo bạo và khác thường như Xuân Diệu, đó là điều thật mới mẻ, thật mãnh liệt. Đặc biệt là cái cách nói của nhà thơ. Trong thơ ca trung đại, nét nổi bật là tính phi ngã, cái tôi trữ tình thường ẩn náu sau những hình tượng thiên nhiên. Trong khi đó, Xuân Diệu bộc lộ ý thức về cái tôi trữ tình thật táo bạo: 
“Tôi muốn tắt nắng đi
Cho màu đừng nhạt mất,
Tôi muốn buộc gió lại
Cho hương đừng bay đi.”
Nói Xuân Diệu là một nhà thơ mới, quả không sai! Nếu như trong thơ ca của những thi sĩ lãng mạn ngày xưa, thiên đường là chốn bồng lai tiên cảnh, là nơi mây gió trăng hoa, thì trong quan niệm thơ của Xuân Diệu, cuộc sống trần gian mới thực là nơi hạnh phúc nhất, là nơi xinh đẹp và căng mọng nhựa sống nhất! Thơ lãng mạn của ông luôn có một niềm say mê ngoại giới, khác giới, một niềm khát khao giao cảm với đời, một lòng ham sống mãnh liệt đến tràn đầy. Dường như lòng yêu đời, yêu cuộc sống của ông đã biến cái ham muốn “tắt nắng”, “buộc gió” trở nên quá táo bạo, đến độ lo âu trước sự thay đổi của đất trời, cảnh vật...muốn ôm tất cả, muốn giữ lại tất cả thiên nhiên với vẻ đẹp vốn có của nó. Ước muốn níu giữ thời gian, chặn vòng quay của vũ trụ, đảo ngược quy luật tự nhiên, phải chăng là ông đang muốn đoạt quyền tạo hóa. Nhưng trong cái phi lí đó, vẫn có sự đáng yêu của một tâm hồn lãng mạn yêu cuộc sống. Với ông, sống là cả một hạnh phúc lớn lao, kỳ diệu, sống là để tận hưởng và cống hiến. Thế giới này được Xuân Diệu cảm nhận như một thiên đường trên mặt đất, một bữa tiệc lớn của trần gian. Nhà thơ đã cảm nhận bằng cả sự tinh tế nhất của một hồn yêu đầy ham muốn, nên sự sống cũng hiện ra như một thế giới đầy xuân tình. Cái thiên đường sắc hương đó hiện ra trong “Vội vàng” vừa như một mảnh vườn tình ái, vạn vật đương lúc lên hương, vừa như một mâm tiệc với một thực đơn quyến rũ, lại vừa như một người tình đầy khêu gợi. 
Có ai đó đã nói rằng: “Xuân Diệu say đắm với tình yêu và hăng hái với mùa xuân, thả mình bơi trong ánh nắng, rung động với bướm, chim, chất đầy trong tim mây trời thanh sắc”: 
“Của ong bướm này đây tuần tháng mật;
Này đây hoa của đồng nội xanh rì;
Này đây lá của cành tơ phơ phất;
Của yến anh này đây khúc tình si”
Đó là niềm vui sướng của trái tim thi sĩ trẻ lần đầu tiên phát hiện ra một thiên đường trên mặt đất. Nếu thơ xưa, các nhà thơ chỉ sử dụng thính giác và thị giác để cảm nhận vẻ đẹp của ngoại giới thì các thi sĩ thời Thơ mới lại huy động tất cả các giác quan từ nhiều góc độ để cảm nhận vẻ đẹp và sự quyến rũ đắm say hồn người của cảnh vật và đất trời lúc xuân sang. Trong đoạn thơ, điệp ngữ “này đây” được sử dụng năm lần kết hợp với lối kiệt kê khiến nhịp thơ trở nên dồn dập, là một sự chỉ trỏ ngơ ngác, ngạc nhiên, lạ lẫm, như một tiếng reo vui sướng tột cùng để rồi chìm ngập đắm say trước trùng trùng điệp: Của ong bướm tuần tháng “mật” ngọt ngào, nào là hoa của đồng nội xanh “rì”, nào là lá của cành tơ “phơ phất”, của yến anh là khúc tình “si”; thể hiện sự phong phú bất tận của thiên nhiên. Tất cả mọi giác quan của thi sĩ như rung lên, căng ra mà đón nhận tất cả, cảm nhận tất cả. Sự sống ngồn ngột đang phơi bày, thiên nhiên hữu tình xinh đẹp thật đáng yêu như một sự gợi mở hấp dẫn đến lạ kì, một sự mời mọc mà thiên nhiên là những “món ăn” có sẵn. Những vẻ đẹp được liệt kê bằng những tính từ đậm nhạt khác nhau để thể hiện tài năng sử dụng từ ngữ của Xuân Diệu - cảnh vật trong thơ ông đã trở nên cuộn trào sắc màu, cuộn trào sức sống. Sự vật bình thường ở ngoài đời cũng được đặt cho một dáng vẻ rất kiêu, rất hãnh diện, được trực tiếp nhận ánh sáng rực rỡ của lòng yêu cuộc sống từ hồn thơ Xuân Diệu đã trở nên lung linh, đẹp đẽ, là biểu tượng của mùa xuân và tuổi trẻ ở giữa cuộc đời! Thi pháp hiện đại đã chắp cánh cho những cảm giác mới mẻ của Xuân Diệu, giúp nhà thơ diễn tả trạng thái hồn nhiên, bồng bột trước cái sắc xuân trong cảnh vật, trong đất trời và của muôn loài. Cách ngắt nhịp trong đoạn thơ đầy linh hoạt, biến hoá (3/2/3 và 3/5). Đặc biệt là những hình ảnh, những khung cảnh được miêu tả thật cụ thể, in đậm phong cách Xuân Diệu: tuần tháng mật, đồng nội xanh rì...tất cả tràn trề sự sống và thật đắm say! 
“Và này đây ánh sáng chớp hàng mi
Mỗi buổi sớm, thần Vui hằng gõ cửa
Tháng giêng ngon như một cặp môi gần
Tôi sung sướng. Nhưng vội vàng một nửa:
Tôi không chờ nắng hạ mới hòai xuân.”
Chưa bao giờ trong thơ Việt Nam hình ảnh mặt trời - vầng thái dương lại hiện ra dịu dàng, tình tứ và lãng mạn đến thế. Với Xuân Diệu, mỗi ngày được sống, được nhìn thấy mặt trời, được tận hưởng sắc hương của vạn vật là một ngày vui. Hình ảnh “thần vui hằng gõ cửa” gợi những liên tưởng gần gũi với hình tượng mặt trời trong thần thoại Hy Lạp xưa. Niềm vui sướng trong tâm hồn nhà thơ dâng tràn khiến ngòi bút của Xuân Diệu thật sự xuất thần và thi sĩ đã sáng tạo nên một câu thơ tuyệt bút: “Tháng giêng ngon như một cặp môi gần”. Một chữ “ngon” chuyển đổi cảm giác thần tình, một cách so sánh vừa lạ vừa táo bạo. Đây là câu thơ hay nhất, mới nhất cho thấy màu sắc cảm giác và tâm hồn yêu đời, yêu cuộc sống đến cuồng nhiệt của thi sĩ Xuân Diệu. Nhà thơ đem lại một khái niệm vốn trìu tượng, thuộc về thời gian “tháng giêng” so sánh với một hình ảnh vốn cụ thể. Nhưng sao câu thơ Xuân Diệu vẫn tinh khôi, vẹn nguyên, trong sáng, lại gần gũi và trẻ trung đến thế! Cái mới trong thơ tình Xuân Diệu là thế! Đó là sự kết hợp hài hoà giữa tâm hồn và thể xác khiến tình yêu thăng hoa. Đang ở đỉnh điểm của hạnh phúc, tâm hồn nhà thơ trỗi lên nỗi âu lo trước cái mong manh của xuân sắc sẽ phai tàn, sự đan xen hai luồng cảm xúc trái ngược là điều thường gặp trong thơ tình Xuân Diệu. Nó dẫn nhà thơ đến những suy tư và quan niệm nhân sinh mang tính triết lý. Thi nhân nhận ra cái quy luật khắc nghiệt của dòng chảy thời gian: “tất cả sẽ qua đi, tất cả sẽ lụi tàn ...” Hai tâm trạng trái ngược nhưng dồn nén trong dòng thơ “Tôi sung sướng. Nhưng vội vàng một nửa”. Về hình thức, đây là một cấu trúc độc đáo bởi nó ngắt thành hai câu chứa đựng hai tâm trạng, hai cảm xúc trái ngược nhau: sung sướng – vội vàng. Nhưng điều mà Xuân Diệu muốn diễn tả là “vội vàng một nửa”. Thường thì con người ở tuổi trung niên mới tiếc tuổi xuân. Ở đây Xuân Diệu đang xuân, đang quá đỗi trẻ trung mà đã nuối tiếc, đã vội vàng “Tôi không chờ nắng hạ mới hoài xuân.” Vì sao vậy? Bởi, với Xuân Diệu: 
“Xuân đương tới, nghĩa là xuân đương qua.
Xuân còn non, nghĩa là xuân sẽ già.
Mà xuân hết, nghĩa là tôi cũng mất.
Lòng tôi rộng, nhưng lượng trời cứ chật,
Không cho dài thời trẻ của nhân gian
Nói làm chi rằng xuân vẫn tuần hoàn,
Nếu tuổi trẻ chẳng hai lần thắm lại!
Còn trời đất, nhưng chẳng còn tôi mãi,
Nên bâng khuâng tôi tiếc cả đất trời;
Mùi tháng năm đều rớm vị chia phôi,
Khắp sông núi vẫn than thầm tiễn biệt.
Con gió xinh thì thào trong lá biếc,
Phải chăng hờn vì nỗi phải bay đi?
Chim rộn ràng bỗng đứt tiếng reo thi,
Phải chăng sợ độ phai tàn sắp sửa?
Chẳng bao giờ, ôi! Chẳng bao giờ nữa...”
Nhưng quan niệm của Xuân Diệu vừa phi lí, vừa hợp lí, vừa quen lại vừa lạ. Quen vì người xưa đã từng thở dài “xuất thì bất tái lai”. Và là bởi đó là tiếng nói của một cái tôi ham sống, coi mùa xuân, tuổi trẻ và tình yêu là tất cả sự sống của mình. Biết rằng mùa xuân của đất trời vẫn tuần hoàn nhưng tuổi trẻ chẳng hai lần thắm lại, thi sĩ bâng khuâng, tiếc nuối ... Mối tương giao màu nhiệm của cảnh vật, của tạo vật hình như cũng mang theo nỗi buồn “chia phôi”, hoặc “tiễn biệt”, phải “hờn” vì xa cách, phải “sợ” vì “độ phai tàn sắp sửa”. Cũng là “gió”, là “chim”… nhưng gió khẽ “thì thào” vì “hờn”, còn “chim” thì bỗng ngừng hót, ngừng reo vì “sợ”! Câu hỏi tu từ xuất hiện cũng là để làm nổi bật cái nghịch lý giữa mùa xuân – tuổi trẻ và thời gian: “Phải chăng hờn vì nỗi phải bay đi?” Con người hiện đại sống với quan niệm thời gian tuyến tính, thời gian như một dòng chảy mà mỗi một khoảnh khắc qua là mất đi vĩnh viễn... Trái tim Xuân Diệu đa cảm quá và tâm hồn nhà thơ quá đỗi tinh tế trước bước đi của thời gian. Con người ấy lúc nào cũng “chẳng bao giờ nữa...” Câu cảm thán với cách ngắt nhịp biến hoá làm nổi bật nỗi lòng vừa lo lắng băn khoăn vừa luống cuống tiếc rẻ, bâng khuâng.
Trong đoạn thơ này, cái giọng điệu sôi nổi, bồng bột, đắm say của Xuân Diệu thời “thơ thơ” thể hiện đầy đủ nhất. Những câu thơ chứa đựng cả giọng nói háo hức và nhịp đập của một con tim vồ vập muốn sống hết mình. Con tim ấy của một cái tôi trữ tình từng bộc bạch một cách chân thành. “Tôi chỉ là một cây kim bé nhỏ - mà vạn vật là muôn đá nam châm.” Từng làn sóng ngôn từ lúc đan chéo nhau, lúc lại song song thành những đợt sóng ào ạt vỗ mãi vào tâm hồn người đọc. So với đoạn thơ trên, cách tự xưng của nhân vật trữ tình thay đổi. Phần đầu bài thơ, thi sĩ xưng “tôi” - cái tôi đơn lẻ đang đối thoại với đồng loại. Đến đây, thi sĩ xưng ta một cách đầy tự tin nhưng đã có thêm rất nhiều đồng minh cùng đứng lên đối diện với sự sống: 
“Chẳng bao giờ, ôi! Chẳng bao giờ nữa.
Mau đi thôi! Mùa chưa ngả chiều hôm,”
“Ta muốn ôm.
Cả sự sống mới bắt đầu mơn mởn;
Ta muốn riết mây đưa và gió lượn,
Ta muốn say cánh bướm với tình yêu,
Ta muốn thâu trong một cái hôn nhiều
Và non nước, và cây, và cỏ rạng,
Cho chếnh choáng mùi hương, cho đã đầy ánh sáng,
Cho no nê thanh sắc của thời tươi;
Hỡi xuân hồng, ta muốn cắn vào ngươi!”
Hình thức trình bày đoạn thơ rất đặc biệt, thể hiện dụng ý nghệ thuật của tác giả. Ba chữ “Ta muốn ôm” được đặt ở giữa dòng thơ mô phỏng hình ảnh nhân vật trữ tình đang dang rộng vòng tay để ôm tất cả sự sống lúc xuân thì - sự sống giữa thời tươi vào lòng. Đó là chân dung của một cái tôi đầy tham lam, ham hố đang dứng giữa trần gian, cuộc đời, dòng đời để ôm cho hết, riết cho chặt, cho say, cho chếnh choáng, thâu cho đã đầy, cho no nê, cho tới tận cùng những hương sắc của đất trời giữa mùa xuân... Tất thảy đều vồ vập, khát khao đến cháy bỏng với các mong muốn được giao hoà, giao cảm mãnh liệt với vạn vật, với cuộc đời. Đây quả là một khát khao vô biên, tuyệt đích, rất tiêu biểu cho cảm xúc thơ Xuân Diệu. Điệp từ, điệp ngữ được sử dụng với tần số dày đặc trong cả đoạn thơ tiêu biểu cho nhịp điệu dồn dập, đầy bồng bột, đắm say. Chính những câu thơ đó lưu lại trong ta ấn tượng về một dòng sông cảm xúc cứ dâng trào, ào ạt từ câu mở đầu cho đến câu cuối cùng bài thơ. Chỉ riêng điệp ngữ ta muốn được điệp tới bốn lần, mỗi lần điệp đi điệp lại liền với một động từ diễn tả một trạng trái yêu thương mỗi lúc một nồng nàn, say đắm: ôm, riết, say, thâu. Đó chính là đỉnh điểm của cảm xúc bồng bột, sôi nổi và đắm say khiến nhà thơ phá tung những quan niệm của thi pháp trung đại để biểu lộ tâm hồn mình trong một cách nói tưởng như vô nghĩa mà hoá ra rất sáng tạo “Và non nước, và cây, và cỏ rạng.” Một trạng thái tham lam, ham hố không có điểm tận cùng trong tâm hồn nhà thơ. Tròn cảm nhận của thi nhân, cuộc đời trần thế như bày ra cả một bàn tiệc với tất cả hình ảnh của cuộc sống tươi non, đầy hương sắc. Nhà thơ diễn tả thiên nhiên bằng các mĩ từ, lại nhân hoá khiến nó hiện ra như con người có hình hài và mang dáng dấp của tuổi xuân. Câu cuối cùng kết thúc cả bài thơ: “ Hỡi xuân hồng, ta muốn cắn vào ngươi!” Đây là lời gọi thiết tha với sự cuồng nhiệt cao độ của một trái tim khao khát tình yêu và cuộc sống. Trong hồn thơ Xuân Diệu, mùa xuân - tuổi xuân ngon lành và quyến rũ như một trái chín ửng hồng, như mời mọc. Trong câu thơ này, hình ảnh xuân hồng với từ “cắn” khiến câu thơ thật gợi cảm, xen chút giật mình trước tứ thơ thật độc đáo, diễn tả niềm khao khát giao cảm mãnh liệt, sự ham hố cuồng nhiệt của Xuân Diệu mãi mãi là khát vọng, là ham muốn không có giới hạn. Khát vọng ấy là khát vọng muốn tận hưởng, cũng có đôi chút cống hiến đối với cuộc sống tươi đẹp này. Sự “vội vàng” của Xuân Diệu rất đặc biệt, “vội vàng” để níu lấy, để tận hưởng những gì tươi đẹp nhất ở thời trẻ cuộc đời mỗi con người. Hãy sống hết mình, hãy biết quý trọng thời khắc tươi trẻ & hạnh phúc nhất ở cuộc đời – Đó là lời giục giã được bộc lộ một cách chân thành từ nhà thơ Xuân Diệu. Tuy vậy, trong cuộc sống hiện đại ngày nay, sự “vội vàng” của một bộ phận giới trẻ không còn mang tính “vội vàng” đúng nghĩa như “vội vàng” của Xuân Diệu nữa, dường như đã và đang có phần sai lệch!
Với bài thơ “Vội vàng”, Xuân Diệu đã phả vào nền thi ca Việt Nam một trào lưu “Thơ mới”. Mới lạ nhưng táo bạo, độc dáo ở giọng điệu và cách dùng từ, ngắt nhịp, nhất là cách cảm nhận cuọc sống bằng tất cả các giác quan, với một trái tim chan chứa tình yêu. “Vội vàng” đã thể hiện một cảm quan nghệ thuật rất đẹp, mang ý nghĩa nhân văn sâu sắc. Đó là lòng yêu con người, yêu cuộc đời. Đó là tình yêu cảnh vật, yêu mùa xuân và tuổi trẻ... Và là ham muốn mãnh liệt muốn nĩu giữ thời gian, muốn tận hưởng vị ngọt ngào của cảnh sắc đất trời “tươi non mơn mởn”. Bài thơ thật sự rất ý nghĩa! Phải chăng trời đất sinh ra thi sĩ Xuân Diệu trên xứ sở hữu tình này, là để ca hát về tình yêu, để nhảy múa trong những điệu nhạc tình si?! Thơ Xuân Diệu – thơ vội vã với nhịp đập của thời gian.

Lưu ý: Nếu đề bài yêu cầu phân tích một đoạn thơ nào đó thì sau phần mở bài phải trích thơ.
CHỦ ĐỀ 2: TRÀNG GIANG – HUY CẬN

Đề Bài: Phân tích bài thơ “Tràng giang” của nhà thơ Huy Cận.

Bài Làm Tham Khảo
Từ ngàn xưa, thiên nhiên đã trở thành niềm cảm hứng mãnh liệt khơi nguồn sáng tạo cho thi nhân. Ta đã từng gặp cảnh bồng lai trong thơ Lý Bạch, một vùng quê mộc mạc, tĩnh lặng trong thơ Nguyễn Khuyến, cảnh sơn thủy hữu tình trong thơ Nguyễn Trãi. Đọc “Tràng giang” của nhà thơ Huy Cận – một nhà thơ tiêu biểu trong phong trào Thơ mới (1932 – 1945), ta bắt gặp cảnh mênh mông sóng nước; đồng thời ta cảm nhận được cái tôi buồn vời vợi, thương cho kiếp người nhỏ bé, nổi trôi giữa dòng đời vô định. Đây là một bài thơ hay, tiêu biểu và nổi tiếng nhất của Huy Cận trước Cách mạng tháng Tám.
“Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp,
Con thuyền xuôi mái nước song song,
Thuyền về nước lại, sầu trăm ngả;
Củi một cành khô lạc mấy dòng.

Lơ thơ cồn nhỏ gió đìu hiu,
Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều.
Nắng xuống, trời lên sâu chót vót,
Sông dài, trời rộng, bến cô liêu.

Bèo dạt về đâu, hàng nối hàng;
Mênh mông không một chuyến đò ngang.
Không cầu gợi chút niềm thân mật,
Lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng.

Lớp lớp mây cao đùn núi bạc,
Chim nghiêng cánh nhỏ: bóng chiều sa.
Lòng quê dợn dợn vời con nước,
Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà.”
Bài thơ có tựa đề “Tràng giang”, câu thơ đầu tiên nhắc lại tựa đề “Tràng giang”, có nghĩa là sông dài, rộng, đồng thời điệp vần ang, góp phần tạo nên dư âm vang xa, trầm lắng của câu thơ mở đầu, tạo nên âm hưởng chung cho toàn bộ giọng điệu cả bài thơ. Ngay từ khổ thơ đầu, vẻ đẹp cổ điển của bài thơ được thể hiện khá rõ:
“Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp,
Con thuyền xuôi mái nước song song”
Câu thơ đầu gợi tả cảnh dòng sông mênh mang, những con sóng lăn tăn, lô xô nối nhau chạy tới vô tận. Với động từ gợn, kết hợp với từ láy điệp điệp, từ gợi cảm xúc thì những con sóng ấy trở thành những con sóng lòng. Đó chính là nỗi buồn đang lan tỏa trong lòng nhà thơ.
Trên dòng sông gợn sóng điệp điệp, nước song song ấy, là một con thuyền xuôi mái, lững lờ trôi đi. Trong cảnh có sự chuyển động là thế, nhưng sao chỉ thấy sự lẻ loi, đơn chiếc của cảnh vật trong không gian mênh mông của thiên nhiên, của tràng giang dài và rộng vô tận đến nhường nào! Ở khổ thơ đầu cũng như toàn bộ bài “Tràng giangyhIhH”, nghệ thuật đối đã được vận dụng hết sức linh hoạt, chủ yếu đối về ý, chứ không bị câu thúc về niêm, luật như cách đối trong thơ cổ: “Sóng – con thuyền”, “buồn điệp điệp – nước song song”. Điều này làm cho câu thơ thêm uyển chuyển, linh hoạt; mặt khác vẫn phát huy được một trong những thế mạnh của loại thơ này, tạo nên không khí trang trọng, cổ điển. Bên cạnh đó, nghệ thuật sử dụng từ láy điệp điệp, song song cũng có hiệu quả nhất định, tạo nên âm điệu cổ kính.
Dòng sông thì bát ngát vô cùng, vô tận; nỗi buồn của con người cũng đầy ắp trong lòng:
“Thuyền về nước lại, sầu trăm ngả;
Củi một cành khô lạc mấy dòng.”
Thuyền và nước vốn đi liền với nhau, thuyền trôi đi nhờ nước xô, nước vỗ vào thuyền. Thế mà Huy Cận lại thấy thuyền và nước đang chia lìa, xa cách thuyền về nước lại, nghe sao đầy xót xa! Chính vì thế mà gợi lên trong lòng người nỗi sầu trăm ngả. Từ chỉ số nhiều trăm hô ứng cùng từ chỉ số mấy đã thổi vào câu thơ nỗi buồn vô hạn. Từ nỗi buồn hóa nỗi sầu, rồi nỗi sầu ấy lan tỏa đi trăm ngả. Tâm hồn của chủ thể trữ tình được bộc lộ đầy đủ nhất qua câu thơ đặc sắc:
“Củi một cành khô lạc mấy dòng”
Đây là một câu thơ rất độc đáo. Huy Cận đã khéo dùng phép đảo ngữ kết hợp với những từ ngữ chọn lọc, thể hiện nỗi cô đơn, lạc lõng giữa vũ trụ bao la. Một gợi lên sự ít ỏi, nhỏ bé; cành khô gợi lên sự khô héo, cạn kiệt nhựa sống. Lạc mang nỗi sầu vô định, trôi nỗi, bập bềnh trên mấy dòng nước thiên nhiên rộng lớn mênh mông. Cành củi khô đó trôi đi nơi nào, hình ảnh giản dị, không tô vẽ mà sao đầy rợn ngợp, khiến lòng người đọc cảm thấy trống vắng, đơn côi. Nét đẹp cổ điển tả cảnh ngụ tình thật khéo léo, tài hoa của tác giả đã gợi tả nỗi buồn u sầu như con sóng sẽ còn vỗ mãi ở các khổ thơ còn lại để người đọc có thể cảm thông, thấu hiểu về một nét tâm trạng thường gặp ở các nhà thơ mới. Nhưng bên cạnh đó, ta cũng nhìn ra một vẻ đẹp hiện tại rất thú vị của khổ thơ. Đó là cách nói củi khô một cành thật đặc biệt không chỉ thâu tóm toàn bộ cảm xúc của toàn khổ mà còn hé mở tâm trạng của nhân vật trữ tình, một niềm đơn côi, lạc lõng; kiếp người nhỏ bé, lẻ loi đang nổi trôi vô định giữa dòng đời.
Khép lại khổ một, người đọc phần nào đã cảm nhận được nỗi lòng của nhà thơ. Sang khổ thơ thứ hai, cảnh vật được mở rộng hơn, được điểm thêm bằng các chi tiết cồn nhỏ, gió, làng xa nhưng vẫn mang một nỗi buồn khó tả:
“Lơ thơ cồn nhỏ gió đìu hiu,
Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều”
Theo Huy Cận, từ “đìu hiu” ông học được trong Chinh phụ ngâm:
“Non kì quạnh quẽ trăng treo
Bến Phì gió thổi đìu hiu mấy gò”
Hai từ lấy “lơ thơ” và “đìu hiu” được tác giả khéo léo sắp xếp trên cùng một dòng thơ đã vẽ nên một quang cảnh vắng lặng. Lơ thơ gợi sự ít ỏi, bé nhỏ; đìu hiu lại gợi sự quạnh quẽ. Giữa khung cảnh cồn nhỏ, gió thì đìu hiu, một khung cảnh lạnh lẽo tiêu điều ấy, con người trở nên đơn côi, rợn ngợp đến độ thốt lên đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều. Câu thơ lâu nay vẫn tồn tại hai cách hiểu, chợ chiều đã vãn nên không còn nghe thấy một âm thanh nào nữa, cũng có thể là những âm thanh của một buổi chợ chiều đã vãn từ xa nên rất nhỏ. Nhưng dù theo cách hiểu nào thì âm thanh đó và hình ảnh chợ chiều đã vãn cũng gợi lên một nét buồn. 
Đôi mắt trữ tình của nhà thơ đã trải rộng, nhìn lên, nhìn xuống, nhìn xa:
“Nắng xuống, trời lên sâu chót vót,
Sông dài, trời rộng, bến cô liêu”
Đây là câu thơ có giá trị tạo hình đặc sắc. Không gian được mở rộng theo nhiều chiều cao, rộng, sâu. Ở đây, có cách kết hợp rất độc đáo, không phải cao chót vót mà là sâu chót vót, từ sâu gợi được ở người đọc ấn tượng thăm thẳm, hun hút, khôn cùng. Chót vót khắc họa được chiều cao dường như vô tận. Vì nắng xuống nên khoảng cách giữa dòng sông và bầu trời càng xa hơn. Không gian càng rộng, càng xa, càng sâu thì cảnh vật càng trở nên vắng lặng, chỉ có sông dài với bến lẻ loi, cô đơn. Nỗi buồn dường như thấm vào cả không gian. Con người trở nên nhỏ bé, lẻ loi trước không gian rộng lớn và thấy “lạc loài giữa cái mênh mông của đất trời, cái xa vắng của thời gian” (Hoài Thanh). Bên cạnh đó, vẻ đẹp cổ điển của khổ thơ hiện ra qua các thi liệu quen thuộc trong Đường thi, có tác dụng làm cho người đọc nhận thấy mọi thứ đã tan rã, chia lìa. 
Nhà thơ lại nhìn về dòng sông, nhìn cảnh xung quanh mong mỏi có chút gì quen thuộc mang lại hơi ấm cho tâm hồn đang chìm vào trong giá lạnh và cô đơn. Nhưng thiên nhiên đã đáp trả lại sự khao khát ấy bằng những hình ảnh quạnh quẽ, đìu hiu:
“Bèo dạt về đâu hàng nối hàng;
Mênh mông không một chuyến đò ngang.
Không cầu gợi chút niềm thân mật,
Lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng.”
Hình ảnh cánh bèo trôi bồng bềnh trên sông là hình ảnh quen thuộc, thường dùng trong thơ cổ điển, nó gợi lên một cái gì bấp bênh, nổi trôi của kiếp người vô định giữa dòng đời. Nhưng trong thơ Huy Cận không chỉ có một hay hai cánh bèo, mà là hàng nối hàng. Bèo trôi hàng hàng càng khiến lòng người rợp ngợp trước cảnh thiên nhiên, để từ đó cõi lòng càng đau đớn, càng cô đơn. Bên cạnh hàng nối hàng cánh bèo là bờ xanh tiếp bãi vàng như mở ra một không gian bao la vô cùng, vô tận, thiên nhiên nối tiếp thiên nhiên, dường như không có con người, không có chút sinh hoạt của con người, không có sự giao hòa, nối kết:
“Mênh mông không một chuyến đò ngang
Không cầu gợi chút niềm thân mật”
Tác giả đưa ra cấu trúc phủ định ...không...kh

File đính kèm:

  • docDe Cuong On Van Hoc 11HKII.doc