Đề tài Tạo hứng thú, sự hấp dẫn cho học sinh trong học môn Toán
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đề tài Tạo hứng thú, sự hấp dẫn cho học sinh trong học môn Toán, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
A. Đặt vấn đề Để đáp ứng yêu cầu đào tạo nguồn nhân lực của đất nước thì ngành giáo dục đã và đang giữ vai trò hết sức quan trọng, đồng thời để phát huy vai trò giáo dục trong sự nghiệp phát triển xã hội,với tư cách là nhân tố quyết định trực tiếp,cung cấp nguồn nhân lực cho nền giáo dục nước nhà nói chung và ngành giáo dục phổ thông nói riêng.Là một giáo viên trực tiếp giảng dạy và tìm hiểu thực tiễn tại trường THCS cho thấy những vấn đề bất cập, đó là còn nhiều học sinh chưa nắm vững được kiến thức cơ bản của phân môn hình học,chất lượng bộ môn vẫn còn thấp,các bài kiểm tra,bài thi còn chưa đạt yêu cầu.Bằng thực tiễn trong giảng dạy và tìm hiểu đã có những ý kiến như: mô hình khó tiếp thu,lượng kiến thức trong giờ học còn nhiều mà lại khô khan,không hấp dẫn,nhưng tiết học cần hỗ trợ thì không có trong PPCTLà giáo viên trực tiếp đứng lớp và giảng dạy nên tôi có những bức xúc: Là làm thế nào để nâng cao chất lượng bộ môn? Làm thế nào để học sinh hứng thú,say mê trong khi học? có biện pháp gì để học sinh chịu khó tìm tòi,sáng tạo,vận dụng những gì đã học vào thực tiễn?...với mong muốn tìm ra những đáp án đó, đã thúc đẩy tôi chọn và nghiên cứu đề tài này. B. Giải quyết vấn đề I. Cơ sở lý luận. 1. Thuận lợi: - Trong trường THCS môn toán nói chung và phân môn hình học nói riêng là những môn khoa học gắn liền với thực tiễn.Trong soạn giảng,giáo viên có thể tìm được rất nhiều hình ảnh,những ví dụ,những ứng dụng thực tế. - Đa số giáo viên học hỏi kinh nghiệm từ đồng nghiệp đi trước,phương pháp giảng dạy,sách giáo khoa cải cách theo hướng tích cực. - Ban giám hiệu, tổ chuyên môn, đồng nghiệp luôn quan tâm giúp đỡ,tạo điều kiện cho công tác tìm hiểu,xây dựng,thử nghiệm các biện pháp. 2. Khó khăn: - Trong trường THCS môn toán được coi là môn khoa học luôn được chú trọng nhất và cũng là môn có nhiều khái niệm trừu tượng. Đặc biệt phải khẳng định là phân môn hình học có nhiều khái niệm trừu tượng nhất,bởi khi thực hiện các bài làm đối với hình vẽ lại phải “ mở rộng” các yếu tố như: vẽ thêm đường phụ để chứng minh, điểm, đường thẳng hay suy luậnkiến thức trong bài tập phong phú rất nhiều so với nội dung lý thuyết mới học.Bên cạnh đó yêu cầu bài tập lại cao phải suy diễn chặt chẽ lôgic. - Còn trong phân môn đại số các dạng bài tập thường có cách làm rất rõ ràng,chẳng hạn như: khi nhân hai luỹ thừa cùng cơ số,tìm ước chung lớn nhất,tìm bội chung nhỏ nhất(Lớp 6) hay khi giải phương trình bậc hai ax2 + bx + c = 0 ( lớp 9) thì sách đưa ra các bước giải rất cụ thể,còn với phân môn hình học thì lý thuyết ít,lại trừu tượng, ít đưa ra các hướng đi nên học sinh rất khó để có thể định hướng cách làm. - Hơn nữa sự chênh lệch giữa kiến thức và lượng bài tập với thời gian luyện tập cho học sinh lại quá lớn. Do đó,rất khó khăn trong việc chọn bài cho học sinh làm ở nhà,chọn bài để hướng dẫn trên lớp sao cho đầy đủ kiến thức cơ bản và sách yêu cầu. Chẳng hạn: Lớp 6: Bài đoạn thẳng có 7 bài tập hay bài vẽ đoạn thẳng cho biết độ dài có 7 bài tập mà không có tiết luyện tập và cả trong phần ôn tập học kì I chỉ có một tiết ôn tập theo PPCT. Lớp 9: Bài vị trí tương đối của đường thẳng và đường tròn cũng không có tiết luyện tập theo PPCT. - Từ những khó khăn về việc khi học sinh làm quen cần có những tiết luyện tập để củng cố mà không có để củng cố đã tạo nên thái độ miễn cưỡng,chán nản của các em.Từ đó,nhiều em không nắm được kiến thức cơ bản,làm bài tập về nhà chỉ để đối phó,lúng túng trong việc chọn và sử dụng dụng cụ để vẽ hình,không biết vẽ hình bắt đầu từ đâuĐiều này cho thấy mỗi giáo viên phải bỏ nhiều công sức để nghiên cứu, chọn lọc cho mình cách soạn giảng tốt nhất để tạo hứng thú cho học sinh trong bài giảng. II. Biện pháp. Trên cơ sở lí luận đó,tôi nghĩ giáo viên cần phải xây dựng được cho học sinh một sự hứng thú,kích thích tính tò mò,tự giác tìm hiểu về môn học.Bằng kinh nghiệm hiểu biết và tìm hiểu qua nhiều thông tin tôi có một số giải pháp như sau: 1. Tạo hứng thú,sự hấp dẫn cho học sinh khi tìm hiểu về kiến thức mới. - Với học sinh THCS ở lứa tuổi các em rất hiếu động,thích tò mò,khám phá và muốn được mọi người công nhận năng lực của mình,không thích bị áp đặt,phê bình. Điều này cho thấy khi truyền thụ kiến thức cho học sinh,giáo viên phải lựa chọn những phương pháp phù hợp,nhẹ nhàng,kích thích được tính tò mò của các em để xuất hiện nhu cầu khám phá, từ đó các em có tâm lý để chinh phục kiến thức. - Như vậy,phải làm như thế nào để tạo được hứng thú cho học sinh trong giờ học? rõ ràng để làm được điều này,giáo viên phải đầu tư thật kĩ cho tiết dạy của mình.Riêng tôi,khi dạy tiết hình,thường chọn cho mình một phương pháp tạo tình huống từ những vấn đề thực tiễn như: đưa ra một tình huống trong thực tế hoặc kể một câu truyện,có liên quan mật thiết đến toán học.Từ đó,học sinh tham gia tiết học tích cực,hào hứng hơn,các em không còn cảm giác bị gò ép,căng thẳng và chán nản nữa, đồng thời các em sẽ nhận thức được tính thực tiễn của bộ môn. Chẳng hạn: Lớp 9: Khi dạy bài “ Vị trí tương đối của đường thẳng và đường tròn” giáo viên có thể đưa ra hình vẽ về ba thời điểm tương ứng của mặt trời và đường chân trời rồi hỏi học sinh về cách nhận biết về từng thời điểm,từ đó thấy được ứng dụng của bài trong thực tế, để đi đến bài mới. Lớp 8: Khi dạy bài “Đối xứng trục” vấn đề cần giải quyết là làm thế nào để cắt được một chữ H nhanh từ tờ giấy hình chữ nhật. Lớp 7: Khi dạy bài “ Tính chất ba đường trung tuyến của tam giác” giáo viên hỏi: có một miếng bìa cứng hình tam giác đặt lên một giá nhọn, làm thế nào miếng bìa ở tư thế thăng bằng.Từ đó đi đến bài mới. Lớp 6: Khi dạy bài “ Trung điểm của đoạn thẳng” giáo viên mang một đoạn dây yêu cầu học sinh chia thành hai đoạn bằng nhau? từ đó giáo viên yêu cầu học sinh phát hiện ra tính chất đặc biệt của cách làm. - Rõ ràng, mỗi kiểu bài đều có một đặc thù riêng và phương pháp dùng hình ảnh trực quan rất thích hợp đối với hình học: mô hình,vật thật,tranh vẽlà yếu tố không thể thiếu khi vào tiết dạy.Ngoài ra giáo viên nên tìm tòi những vật thật trong thực tế để tạo sự mới lạ và thú vị cho học sinh, hay để tìm hiểu về mặt cắt của hình trụ bởi một mặt phẳng ta có thể cho các em tự phát hiện khi trực tiếp cắt một hình trụ là “củ cải”. Vận dụng cách làm đó lớp học rất vui vẻ,học sinh tham gia xây dựng bài tích cực, đồng thời các em sẽ nhớ và vận dụng làm bài tập nhanh hơn và lâu hơn. 2. Tạo hứng thú,hấp dẫn cho học sinh trong những tiết ôn tập. - Môn hình học sau mỗi phần hoặc chương giáo viên phải hệ thống hóa kiến thức trọng tâm, để tạo hứng thú cho học sinh bằng cách tạo ra những cách chơi: hệ thống kiến thức bằng sơ đồ hoặc bảng rồi yêu cầu học sinh điền vào những chỗ trống.Việc làm này giúp học sinh nhận thấy giữa các phần đã học.Từ đó,các em khắc sâu kiến thức và nhớ lâu hơn. Chẳng hạn: Phần “Đường tròn” (lớp 9) giáo viên chuẩn bị bảng tổng hợp: Nội dung Các trường hợp Số điểm chung Hệ thức giữa d,R,r và điểm M Vị trí tương đối của điểm đối với đường tròn - Nằm ngoài . - Nằm trong . - Nằm trên . Vị trí tương đối giữa - Cắt nhau .. đường tròn và đường - Tiếp xúc .. thẳng - Không giáo nhau . .. - Cắt nhau .. - Tiếp xúc Vị trí tương đối giữa hai + Tiếp xúc ngoài đường tròn + Tiếp xúc trong . - Tuy nhiên,sự hứng thú học phân môn hình học không chỉ được tạo ra trong tiết học mà còn phải kích thích cho học sinh trong thời gian học ở nhà.Chính vì vậy, đối với giáo viên trực tiếp giảng dạy có thể phối hợp với những giáo viên dạy trong cùng phân môn ở các khối lớp tổ chức những chuyên đề tìm ra những cách giải nhanh,ngắn gọn cho một bài toán hoặc sáng tạo ra những thiết bị,mô hình ứng dụng của hình họcNhững tình huống phát huy được khả năng tư duy,sáng tạo,giúp các em tin tưởng và yêu thích môn học. Chẳng hạn: - Học xong chương IV ( lớp 8) giáo viên có thể yêu cầu học sinh làm những mô hình dạng hình hộp chữ nhật,hình lập phương,lăng trụnhư: hộp đựng bút,vật trang trí trên bàn học. - Học xong chương II ( lớp 9) giáo viên có thể yêu cầu học sinh làm mô hình xác định tâm của vật thể hình tròn,mô hình thể hiện vị trí tương đối giữa hai đường tròn, * Phân loại bài tập. - Đối với phân môn hình học việc chọn lọc và phân loại bài tập là rất quan trọng,vì vậy giáo viên có thể chia bài tập ra làm nhiều dạng: Bài tập cơ bản áp dụng ngay công thức, định nghĩa, định lý vừa học giúp học sinh có niềm tin và khắc sâu kiến thức; dạng bài tập thực tế cho thấy tính thực tiễn của toán học; dạng bài tập suy luận tổng hợp đòi hỏi học sinh phải tìm tòi,suy nghĩ,hứng thú khám phánhằm củng cố lại kiến thức của phần học hay chương đó. - Khi làm được điều này nó thuận lợi rất nhiều khi giao và hướng dẫn bài tập về nhà cho các em,từ đó các em có thể làm những bài tập tương tự. 3. Về phần hình vẽ. - Học phân môn hình học thì một yếu tố rất quan trọng là học sinh phải biết vẽ hình.Thế nhưng vẽ ra sao?yếu tố nào trước,yếu tố nào sau? Kí hiệu như thế nào? Khi vẽ thì cần dụng cụ gì?... Điều này học sinh cần có một quá trình rèn luyện lâu dài dưới sự chỉ dẫn của giáo viên ngay từ khi các em làm quen kiến thức mới. - Khi vẽ hình cần xác định cho học sinh vừa học vừa vẽ,cần bổ sung các yếu tố phụ và biết biểu diễn các ngôn ngữ sang kí hiệu hình học. - Để thực hiện những điều đó giáo viên phải lựa chọn cách vẽ để hướng dẫn học sinh vẽ hình.Cụ thể: +, Rèn cho học sinh có thói quen kí hiệu trên hình vẽ các trường hợp: Điểm,các đoạn thẳng bằng nhau,các góc bằng nhau,các trường hợp vuông góc,bổ sung các yếu tố phụ trên hình +,Hướng dẫn học sinh cách sử dụng các dụng cụ: Êke: Vẽ góc vuông,hai đường thẳng song song Compa: Vẽ đường tròn,hình tròn,hai đoạn thẳng bằng nhau, Thước thẳng: Vẽ đường thẳng, Chẳng hạn: Ở lớp 9: Cho tam giác ABC, O là tâm đường tròn ngoại tiếpthì giáo viên hướng dẫn học sinh vẽ đường tròn trước,vẽ tam giác sau. Ở lớp 8: Vẽ hình thoi thì hướng dẫn vẽ hai đường chéo trước. Ở lớp 7: Dựng đường cao AH của tam giác ABC thì kí hiệu : AH BC Ở lớp 6: Gọi M là điểm bất kì của đoạn thẳng ABgiáo viên hướng dẫn học sinh vẽ đoạn thẳng AB trước,lấy điểm M sau. Tóm lại,các bài tập đều yêu cầu học sinh vẽ hình,nên khi vẽ các em phải đọc kĩ bài, đọc đến đâu vẽ đến đó,vẽ rõ ràng và dùng đúng dụng cụ vẽ,từ đó học sinh trả lời yêu cầu đề bài. Đặc biệt phải hình thành cho học sinh thói quen phân tích kĩ đề bài, định hướng vẽ và dự đoán các trường hợp xảy ra,không nên vẽ hình đặc biệt, điểm đặc biêt. Chẳng hạn: +, Cho tam giác ABC thì vẽ thường không vẽ cân,vuông hay đều. +, Cho M là điểm nằm giữa AB thì không lấy tại trung điểm của AB. III.Hiệu quả đạt được. Trong quá trình giảng dạy qua các năm khi áp dụng kinh nghiệm của mình để soạn giảng và vận dụng vào thực tế thì tôi thấy có sự thay đổi: - Học sinh đã có những thái độ học tập tích cực,thích thú hơn trong tiết học,chủ động nêu lên những thắc mắc,khó khăn về bộ môn với giáo viên,các em hưởng ứng rất nhiệt tình.Bên cạnh đó những bài tập giao về nhà đã được các em làm một cách nghiêm túc,tự giác học bài và nắm được các kiến thức cơ bản sau khi học xong mỗi bài. - Phần lớn chất lượng các bài kiểm tra đã được nâng lên,các em đều vẽ hình đúng,xác định hướng đi bài toán,số học sinh chứng minh lôgíc và chặt chẽ được tăng. - Từ những bài học đa số các em đều vận dụng vào thực tiễn từ những kiến thức đã học: Đo đạc,cắt hình,xác định tâm của vật thể, C. Phần kết luận. Qua những ý kiến và những biện pháp được đóng góp, theo tôi để trang bị cho học sinh có kiến thức vững,hứng thú và yêu thích môn học đồng thời để nâng cao chất lượng bộ môn,giáo viên phải đầu tư nhiều công sức và nghiên cứu để tìm ra những phương pháp truyền đạt rễ hiểu,luôn trau dồi và cập nhật kiến thức mới. Đồng thời phải luôn gần gũi,tìm hiểu những khó khăn,sở thích của học sinh để từ đó có những biện pháp phù hợp hơn.Bên cạnh đó cần có những thời lượng phù hợp áp dụng vào thực tiễn đời sống và bên ngoài để học sinh thấy được tính thực tiễn của bộ môn. Trên đây là những ý kiến đóng góp của nhiều đồng nghiệp về phân môn cũng như hiệu quả áp dụng một số biện pháp trên vào thực tiễn, đã có nhiều thay đổi về cách học của học sinh,từ đó có thể sử dụng rộng rãi trong trường THCS vào thực tiễn dạy học bộ môn toán với hy vọng đóng góp biện pháp của mình vào xu hướng chung về phát triển phân môn và có nhiều kết quả khả thi hơn trong thời gian tới. - Hết -
File đính kèm:
- SKKN mon Toan.doc