Đề thi chọn học sinh giỏi lớp 9 năm học: 2011-2012 môn: ngữ văn
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đề thi chọn học sinh giỏi lớp 9 năm học: 2011-2012 môn: ngữ văn, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
UBND HUYỆN TAM DƯƠNG ĐỀ CHÍNH THỨC PHÒNG GD&ĐT ĐỀ THI CHỌN HỌC SINH GIỎI LỚP 9 Năm học: 2011-2012 Môn: Ngữ Văn Thời gian làm bài: 150 phút Đề thi này gồm 01 trang Câu 1: (2 điểm) Viết đoạn văn (khoảng 13 đến 15 câu) nêu cảm nhận của em sau khi đọc phần trích sau: "Mùa xuân của tôi - mùa xuân Bắc Việt, mùa xuân của Hà Nội - là mùa xuân có mưa riêu riêu, gió lành lạnh, có tiếng nhạn kêu trong đêm xanh, có tiếng trống chèo vọng lại từ những thôn xóm xa xa, có câu hát huê tình của cô gái đẹp như thơ mộng... .... Đẹp quá đi, mùa xuân ơi - mùa xuân của Hà Nội thân yêu, của Bắc Việt thương mến. Nhưng tôi yêu mùa xuân nhất là vào khoảng sau ngày rằm tháng giêng, Tết hết mà chưa hết hẳn, đào hơi phai nhưng nhuỵ vẫn còn phong, cỏ không mướt xanh như cuối đông, đầu giêng, nhưng trái lại, lại nức một mùi hương man mác." (Mùa xuân của tôi - Trích: "Thương nhớ mười hai" - Vũ Bằng) Câu 2: (3 điểm) Suy nghĩ của em từ ý nghĩa câu chuyện sau: Diễn giả Le-o Bu-sca-gli-a lần nọ kể về một cuộc thi mà ông làm giám khảo. Mục đích của cuộc thi là tìm ra đứa trẻ biết quan tâm nhất. Người thắng cuộc là một em bé bốn tuổi. Người hàng xóm của em là một ông lão vừa mất vợ. Nhìn thấy ông khóc, cậu bé lại gần rồi leo lên ngồi vào lòng ông. Cậu ngồi rất lâu và chỉ ngồi như thế. Khi mẹ em bé hỏi em đã trò chuyện những gì với ông ấy, cậu bé trả lời: "Không có gì đâu ạ. Con chỉ để ông ấy khóc." (Theo "Phép màu nhiệm của đời" - NXB Trẻ, 2005) Câu 3: (5 điểm) Thơ văn hiện đại Việt Nam giai đoạn 1945 - 1975, ngoài hình ảnh người chiến sĩ trong sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc còn mang nhịp thở của con người lao động mới. Bằng những hiểu biết về văn học giai đoạn này, em hãy làm sáng tỏ nhận định trên. ……….HẾT……….. Cán bộ coi thi không giải thích gì thêm. Họ tên thí sinh..........................................................................SBD:..................... UBND HUYỆN TAM DƯƠNG ĐỀ CHÍNH THỨC PHÒNG GD&ĐT HƯỚNG DẪN CHẤM MÔN NGỮ VĂN KÌ THI CHỌN HSG LỚP 9 Năm học: 2011-2012 (HDC này gồm 3 trang) Câu 1: (2 điểm) A- Yêu cầu: I/ Về kĩ năng: - HS trình bày cảm nhận bằng đoạn văn từ 13 đến 15 câu. - Diễn đạt rõ ràng, trong sáng, văn viết có cảm xúc, không mắc lỗi chính tả, dùng từ, đặt câu. II/ Về kiến thức: HS có thể có những phát hiện, cảm thụ riêng nhưng cần làm rõ một số ý cơ bản sau: 1. Nội dung: Hai đoạn văn là những cảm nhận tinh tế và sâu sắc của Vũ Bằng về mùa xuân thiên nhiên trong sáng, tràn đầy hương vị và sức sống của đất trời xứ Bắc. - Đoạn 1: Tác giả gợi tả những nét đẹp của thiên nhiên đất trời lúc vào xuân ở Miền Bắc nước ta. Đó là vẻ đẹp của tiết trời mùa xuân có khí lạnh của "mưa riêu riêu, gió lành lạnh", có âm thanh của vạn vật và cuộc sống con người: "tiếng nhạn kêu trong đêm xanh, tiếng trống chèo, câu hát huê tình...". Không khí mùa xuân như đang tràn ngập khắp đất trời miền Bắc. - Đoạn 2: Nhà văn tập trung miêu tả nét riêng của thiên nhiên, của không khí mùa xuân sau ngày rằm tháng giêng. Đó là những phát hiện và cảm nhận vẻ đẹp đất trời vào xuân với sự hồi sinh của vạn vật, cỏ cây trổ lộc, đơm hoa kết trái: "Đào hơi phai nhưng nhuỵ còn phong, cỏ không mướt xanh nhưng nức mùi hương man mác...". Thiên nhiên không sôi động, rực rỡ mà như đang cựa mình, đang tích tụ sức sống mùa xuân để tiếp nối cuộc tuần hoàn kì diệu trong đời sống con người và cảnh vật. Vẻ đẹp mùa xuân khiến lòng người không ghìm được xúc động phải thốt lên: "Đẹp quá đi, mùa xuân ơi...Tôi yêu mùa xuân nhất là...". Đó là tình yêu mến, say đắm "rạo rực niềm vui sáng sủa" khi xuân về. Đó cũng là tình yêu cuộc sống, yêu con người, khát khao gắn bó với quê hương, với thiên nhiên đất Bắc của tác giả. 2. Nghệ thuật: - Giọng văn nhẹ nhàng, sâu lắng, tràn đầy cảm xúc. - Cách sử dụng từ ngữ, hình ảnh chọn lọc, tiêu biểu. - Nghệ thuật so sánh mới lạ, độc đáo; những câu văn dài...góp phần làm rõ vẻ đẹp của mùa xuân miền Bắc, khơi dậy tình yêu thiên nhiên, lòng thương nhớ quê hương, lòng yêu Tổ quốc của nhà văn Vũ Bằng. B- Thang điểm: - Điểm 2: Đáp ứng được các yêu cầu nêu trên, văn viết có cảm xúc, diễn đạt trong sáng. - Điểm 1: Hiểu ý nhưng cảm nhận chưa sâu, diễn đạt chưa thật lưu loát. - Điểm 0: Bài viết sai lệch cả về nội dung và hình thức. Câu 2: (3 điểm) A- Yêu cầu: I/ Về kĩ năng: HS trình bày dưới dạng bài văn nghị luận xã hội, có hệ thống luận điểm rõ ràng, chính xác, khoa học. Lập luận chặt chẽ, diễn đạt mạch lạc, văn viết có cảm xúc, không mắc lỗi chính tả, dùng từ, đặt câu. II/ Về kiến thức: 1. Giải thích được nội dung cơ bản của câu chuyện: - Em bé đạt giải trong cuộc thi vì em là người biết quan tâm, chia sẻ nỗi đau với người khác. - Người được chia sẻ không đòi hỏi gì, chỉ cần một chỗ dựa trong lúc đau đớn cũng là quá đủ. - Cách em bé quan tâm đến người khác cũng rất "trẻ con": ngồi vào lòng người hàng xóm. Thế nhưng đó là cách chia sẻ hiệu quả nhất ngay trong tình huống ấy. 2. Chứng minh, bình luận về nội dung câu chuyện: - Trong cuộc sống, đôi khi con người gặp phải những mất mát, đau thương, cần có một mối đồng cảm từ những người xung quanh. (dẫn chứng) - Biết quan tâm, sẻ chia với người khác là một hành động đẹp. Nhưng cách thể hiện sự quan tâm đó như thế nào còn tuỳ thuộc ở mỗi người. (dẫn chứng) 3. Bài học cho bản thân. - Trong cuộc sống, có những bài học vô cùng quý giá mà ta học được từ những điều hết sức bất ngờ. Những em bé đôi khi cũng có những việc làm mà mọi người phải suy ngẫm. - Thấu hiểu và chia sẻ với nỗi đau của người khác là mình đã làm được một việc ý nghĩa. - Sống đẹp sẽ nhận được cái đẹp từ cuộc sống. B. Thang điểm. - Điểm 3: Đáp ứng đầy đủ các yêu cầu trên, bài làm sáng tạo, văn viết có cảm xúc, bố cục rõ ràng, mạch lạc, không mắc lỗi diễn đạt. - Điểm 2: Đáp ứng khá đầy đủ các yêu cầu trên, bố cục rõ ràng, văn viết có cảm xúc, có thể mắc một vài lỗi nhỏ về diễn đạt. - Điểm 1: Đáp ứng được một số yêu cầu cơ bản nhưng bình luận chưa sâu, bài học rút ra còn sơ sài, nông cạn. Diễn đạt chưa thật lưu loát. - Điểm 0: Bài viết sai lệch cả về nội dung và hình thức. * Lưu ý: Nếu bài viết dưới dạng đoạn văn nhưng đáp ứng đầy đủ các yêu cầu, có sáng tạo thì giám khảo linh hoạt cho điểm, nhưng tối đa không quá 2 điểm. Câu 3:(5 điểm) A. Yêu cầu. I. Kĩ năng: - Học sinh hiểu đúng yêu cầu đề bài, biết cách làm bài văn nghị luận văn học. Bố cục rõ ràng, luận điểm khoa học, chặt chẽ, phép lập luận phù hợp. - Lời văn chính xác, sinh động, có cảm xúc. - Không mắc lỗi chính tả, dùng từ, đặt câu. II. Kiến thức: - Học sinh có thể trình bày theo nhiều cách khác nhau, có thể có những cảm nhận riêng, miễn là phù hợp yêu cầu của đề. Với đề bài này cần đảm bảo những ý sau: 1. Giải thích nhận định: - Hiện thực của đất nước ta từ 1945 đến 1975 là hiện thực của những cuộc kháng chiến vệ quốc vĩ đại và công cuộc xây dựng cuộc sống mới đi lên chủ nghĩa xã hội của. Hiện thực đó đã tạo nên cho dân tộc Việt Nam một vóc dáng nổi bật: vóc dáng người chiến sĩ luôn trong tư thế chủ động chiến đấu chống kẻ thù, vóc dáng của con người mới xây dựng đất nước đi lên chủ nghĩa xã hội. Hình ảnh người chiến sĩ và người lao động mới hoà quyện tạo nên vẻ đẹp của con người dân tộc Việt Nam. Và điều này đã làm nên hơi thở, sức sống của văn học thời kì 1945 - 1975. 2. Chứng minh. a. Hình ảnh người chiến sĩ trong sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc: họ là những con người ở mọi tầng lớp, mọi lứa tuổi và nổi bật với lòng yêu nước, ý chí quyết tâm chiến đấu chống kẻ thù xâm lược, với tình đồng đội cao cả, sắt son, tinh thần lạc quan... - Họ là những con người ở mọi tầng lớp, lứa tuổi như: người nông dân mặc áo lính (Đồng chí của Chính Hữu), những chàng trai trí thức vừa rời ghế nhà trường (Bài thơ về tiểu đội xe không kính của Phạm Tiến Duật), những cô thanh niên xung phong (Những ngôi sao xa xôi của Lê Minh Khuê), là em bé liên lạc (Lượm của Tố Hữu)... - Họ là những người lính, người chiến sĩ có lòng yêu nước sâu sắc, có ý chí quyết tâm chiến đấu chống kẻ thù xâm lược, bảo vệ Tổ quốc. (dẫn chứng) - Hoàn cảnh sống chiến đấu đầy khó khăn, gian khổ song họ luôn có tinh thần lạc quan và tình đồng chí, đồng đội cao đẹp... (dẫn chứng) b. Hình ảnh người lao động mới: họ xuất hiện với tư cách là những người làm chủ cuộc sống mới, họ lao động, cống hiến một cách hăng say, hào hứng, sẵn sàng hi sinh cả tuổi thanh xuân của mình vì những lí tưởng cao cả và tương lai đất nước. - Người lao động trong "Đoàn thuyền đánh cá" của Huy cận mang nhịp thở tươi vui, hăm hở, hoà mình cùng trời cao biển rộng: họ ra khơi với niềm hân hoan trong câu hát, với ước mơ trong công việc, với niềm vui thắng lợi trong lao động. Đó là những con người mang tầm vóc vũ trụ, hăm hở ra khơi bằng tất cả sức lực và trí tụê của mình.(Dẫn chứng). - "Lặng lẽ SaPa" của Nguyễn Thành Long mang nhịp thở của người lao động mới với phong cách sống đẹp, suy nghĩ đẹp, sống có lí tưởng, say mê, miệt mài trong công việc, quên mình vì cuộc sống chung, vô tư thầm lặng cống hiến hết mình cho đất nước. Cuộc sống của họ âm thầm, bình dị mà cao đẹp (Dẫn chứng) 3. Đánh giá, bình luận: Văn học Việt Nam giai đoạn 1945-1975 đã đáp ứng được những yêu cầu của lịch sử và thời đại. Ở ngoài tiền tuyến khói lửa là hình ảnh của những người lính dũng cảm, kiên cường. Nơi hậu phương là những người lao động bình dị mang nhịp thở của thời đại mới. Hình ảnh người chiến sĩ và người lao động đã kết tinh thành sức mạnh của con người và dân tộc Việt Nam thế kỉ XX. Các tác giả văn học thời kì này họ đồng thời vừa là nhà văn, nhà thơ, vừa là người lính, người chiến sĩ, người lao động cầm bút để ngợi ca về con người dân tộc Việt với niềm say mê và tự hào. Họ đã làm nên vẻ đẹp và sức sống mới cho văn học Việt Nam. B/ Thang điểm: - Điểm 5: Đáp được những yêu cầu nêu trên, luận điểm đầy đủ rõ ràng, văn viết có cảm xúc, phân tích và bình luận tốt, làm nổi bật được trọng tâm, diễn đạt trong sáng. - Điểm 4: Cơ bản đáp ứng được những yêu cầu nêu trên, làm rõ được trọng tâm song phân tích bình luận chưa sâu, còn một vài sai sót nhỏ. - Điểm 3: Đáp ứng được 2/3 yêu cầu nêu trên, dẫn chứng chưa thật đầy đủ phong phú, bình luận chưa sâu, nhưng vẫn làm rõ được các ý. Còn mắc lỗi dùng từ diễn đạt. - Điểm 2: Bài làm thể hiện được luận điểm nhưng chưa lấy được dẫn chứng, hoặc chỉ bàn luận chung chung, chưa làm nổi bật yêu cầu của đề. Hoặc những bài làm chưa hình thành được luận điểm chỉ đơn thuần phân tích một vài tác phẩm liên quan đến vấn đề nghị luận. - Điểm 0-1: Không hiểu đề, chỉ bàn luận chung chung không đúng yêu cầu của đề hoặc sai lạc cả nội dung và phương pháp. * Lưu ý: Trên đây là những gợi ý cơ bản, Giám khảo cần linh hoạt căn cứ vào từng bài viết của học sinh để cho điểm hợp lí. Khuyến khích những bài làm có tính sáng tạo, thể hiện được năng khiếu văn. ------------------HẾT --------------------
File đính kèm:
- Đề+đáp án HSG VĂN 9-2012 (Chính thức).doc