Hệ thống kiến thức về một số nhân vật trong các tác phẩm văn xuôi 12
Bạn đang xem nội dung tài liệu Hệ thống kiến thức về một số nhân vật trong các tác phẩm văn xuôi 12, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
II/HỆ THỐNG KIẾN THỨC VỀ MỘT SỐ NHÂN VẬT TRONG CÁC TÁC PHẨM VĂN XUÔI 12 -------------------- 1/ Nhân vật Tràng : + Tràng là một trong ba nhân vật trung tâm trong truyện ngắn « Vợ nhặt » của Kim Lân. + Xuất hiện trong tác phẩm, Tràng là một người đàn ông nghèo khổ,bất hạnh nhưng giàu tình người và khát vọng hạnh phúc.Điều đó được thể hiện qua câu chuyện nhặt vợ của anh giữa ngày đói. 1/Về lai lịch, ngoại hình ,tính cách: - Tràng vốn là một gã trai nghèo, sống ở xóm ngụ cư, có mẹ già và làm nghề đẩy xe bò mướn. - Tràng lại có một ngoại hình xấu xí, thô kệch với “ cái đầu trọc nhẵn”;“cái lưng to rộng như lưng gấu”; “ hai con mắt gà gà, nhỏ tí” lúc nào cũng đắm vào bóng chiều của hoàng hôn. - Tính tình của Tràng lại có phần “dở hơi” nhưng tốt bụng, hay vui đùa với trẻ con trong xóm. à Tràng có một cảnh ngộ thật bất hạnh và tội nghiệp. 2/ Vẻ đẹp tình người và khát vọng hạnh phúc của Tràng qua câu chuyện nhặt vợ: a.Tình huống nhặt vợ của Tràng : Tràng có vợ bằng cách “nhặt” được chỉ qua hai lần gặp gỡ, vài câu nói đùa và bốn bát bánh đúc giữa ngày đói à Tình huống độc đáo, đùa mà thật , thật mà cứ như đùa. b.Diễn biến tâm lý, tính cách ,hành động của Tràng trước và sau khi nhặt vợ: - Khi nhặt vợ : + Lúc đầu, khi người phụ nữ đói nghèo, rách rưới đồng ý theo không Tràng về làm vợ, Tràng không phải không biết “chợn”: “Thóc gạo này đến cái thân mình cũng chả biết có nuôi nổi không… đèo bòng”. + Nhưng rồi anh ta chặc lưỡi “Chậc,kệ!”.Tràng chấp nhận đánh liều với hoàn cảnh và số phận vì : Người đàn bà cần Tràng để có một chỗ dựa qua thì đói kém, còn Tràng cũng cần người phụ nữ nghèo ấy để có vợ và để biết đến hạnh phúc. - Trên đường đưa vợ về nhà, Tràng thật sự vui và hạnh phúc : mặt “phớn phở”, “mắt sáng lên lấp lánh”, “miệng cười tủm tỉm”; “ …Tràng như quên hết những cảnh sống ê chề, tăm tối hàng ngày, quên cả đói khát đang đe doạ…Trong lòng hắn, lúc này chỉ còn tình nghĩa với người đàn bà đi bên.Một cái gì mới mẻ, lạ lắm, chưa từng thấy ở người đàn ông ấy…” … - Chỉ sau một ngày “nên vợ nên chồng”. + Tràng thấy mình đổi khác “ trong người êm ái , lửng lơ như người từ giấc mơ đi ra.Việc hắn có vợ đến hôm nay hắn vẫn còn ngỡ như không phải”. + Tràng thấy thương yêu và gắn bó với căn nhà; “Hắn đã có một gia đình.Hắn sẽ cùng vợ sinh con đẻ cái ở đấy.Cái nhà như tổ ấm che mưa che nắng…Bây giờ hắn mới thấy hắn nên người, thấy hắn có bổn phận phải lo cho vợ con sau này…” + Tràng muốn dự phần tu sửa căn nhà . “Hắn xăm xăm chạy ra giữa sân, hắn muốn làm một việc gì để dự phần tu sửa lại căn nhà”. à Tràng đã thật sự thay đổi về số phận lẫn tính cách : từ đau khổ sang hạnh phúc, từ chán đời sang yêu đời, từ ngây dại sang ý thức. + Cuối tác phẩm, trong suy nghĩ của Tràng “ cảnh những người nghèo đói ầm ầm kéo nhau đi trên đê Sộp.Đằng trước có lá cờ đỏ to lắm”.Đoàn người đi phá kho thóc của Nhật và lá cờ Việt Minh.Đây là hiện thực nhưng cũng là ước mơ về một tương lai hướng về Đảng về cách mạng của Tràng và những người như Tràng. 3/ Đánh giá chung về nhân vật Tràng: - Kim Lân miêu tả tâm trạng nhân vật Tràng xoay quanh tình huống nhặt vợ hết sức đặc biệt.Cũng từ đó, hình tượng nhân vật Tràng có vai trò lớn trong việc thể hiện tư tưởng chủ đề của tác phẩm :Những người đói, họ không nghĩ đến cái chết mà luôn nghĩ đến sự sống. - Cũng qua Tràng và câu chuyện nhặt vợ của anh, nhà văn giúp người đọc cảm nhận được vẻ đẹp tâm hồn của những người dân lao động nghèo : đó là vẻ đẹp tình người và niềm tin tưởng vào tương lai. - Qua nhân vật Tràng, Kim Lân đã bộc lộ được khả năng miêu tả tâm lý nhân vật và ngòi bút nhân đạo sâu sắc của nhà văn. 2 2/ Nhân vật người vợ nhặt - Hiện lên trong tác phẩm, người phụ nữ được Tràng nhặt về làm vợ có cảnh ngộ nghèo đói, bất hạnh nhưng lại có một khát vọng sống mãnh liệt . - Điều đó được thể hiện qua việc chị chấp nhận theo không một người đàn ông về làm vợ giữa ngày đói. 1/Về lai lịch, ngoại hình : - Xuất hiện trong tác phẩm, người vợ nhặt chỉ là một con số không tròn trĩnh : không tên tuổi, không quê hương, không gia đình, không nghề nghiệp… - Từ đầu đến cuối tác phẩm chị chỉ được gọi bằng “thị”- một cách gọi phiếm định giành cho chị và tất cả những người phụ nữ có cảnh ngộ và số phận đáng thương và tội nghiệp như chị. - Chân dung của người phụ nữ ấy hiện ra ngay từ đầu là những nét không mấy dễ nhìn : đó là hình ảnh của người đàn bà gầy vêu vao, ngực gầy lép, khuôn mặt lưỡi cày xám xịt, quần áo thì rách như tổ đỉa. 2/ Về tính cách : a/ Trước khi trở thành vợ Tràng, thị là một người phụ nữ ăn nói chỏng lỏn, táo bạo và liều lĩnh + Lần gặp đầu tiên, thị chủ động làm quen ra đẩy xe bò cho Tràng và “liếc mắt cười tít” với Tràng. + Lần gặp thứ hai, thị “sầm sập chạy tới”, “sưng sỉa nói” và lại còn “đứng cong cớn” trước mặt Tràng. Đã vậy, thị còn chủ động đòi ăn. Khi được Tràng mời ăn bánh đúc, thị đã cúi gằm ăn một mạch bốn bát bánh đúc. Ăn xong còn lấy đũa quẹt ngang miệng và khen ngon… à Cái đói trong một lúc nào đó nó có thể làm biến dạng tính cách của con người.--> nhà văn thật sự xót xa và cảm thôngcho cảnh ngộ đói nghèo của người lao động. b/ Khi trở thành vợ Tràng, thị đã trở về với chính con người thật của mình là một người đàn bà hiền thục, e lệ, lễ phép, đảm đang : - Trên đường theo Tràng về nhà: chị hiện lên với dáng vẻ bẽn lẽn đến tội nghiệp khi đi bên Tràng vào lúc trời chạng vạng ( thị đi sau Tràng ba bốn bước, cái nón rách che nghiêng, “rón rén, e thẹn” , ngượng nghịu,“chân nọ bước díu cả vào chân kia”...)à thật tội nghiệp, đáng thương… - Sau một ngày làm vợ, chị dậy sớm, quét tước, dọn dẹp cho căn nhà khang trang, sạch sẽ. à hình ảnh của một người vợ hiền, một cô dâu thảo, biết thấu hiểu và cảm thông cho cảnh ngộ nhà chồng. - Trong bữa cơm cưới giữa ngày đói, chị tỏ ra am hiểu về thời sự khi kể cho mẹ và chồng về câu chuyện ở Bắc Giang người ta đi phá kho thóc của Nhật. Chính chị đã làm cho niềm hy vọng của mẹ và chồng thêm niềm hy vọng vào sự đổi đời trong tương lai. 3/ Đánh giá chung : - Tóm lại, người phụ nữ không tên tuổi, không gia đình, không tên gọi, không người thân ấy đã thật sự đổi đời bằng chính tấm lòng giàu tình nhân ái của Tràng và mẹ Tràng. - Xây dựng nhân vật vợ Tràng, nhà văn tố cáo xã hội đẩy con người đến cảnh ngộ rẻ rúng vì đói khát. 3 3/ Nhân vật bà cụ Tứ. - Cũng như Tràng và người vợt nhặt, bà cụ Tứ là một trong ba nhân vật trung tâm trong truyện ngắn “Vợ nhặt” của nhà văn Kim Lân… Xuất hiện trong tác phẩm, bà cụ Tứ là một người mẹ già, nghèo khổ nhưng giàu tình thương con và giàu lòng nhân hậu. Điều đó được thể hiện qua diễn biến tâm trạng của bà cụ trước sự việc con trai bà nhặt được vợ giữa ngày đói : 1.Vài nét về cuộc đời của bà cụ : Trong tác phẩm, bà cụ Tứ hiện lên là một người đàn bà nông dân, hồn hậu và có một cuộc đời thật nhiều thương cảm : nhà nghèo, goá bụa, sống gian khổ, thầm lặng. 2.Bối cảnh – tình huống và diễn biến tâm trạng của bà cụ: - Bối cảnh xuất hiện của nhân vật: Bà cụ Tứ lần đầu tiên xuất hiện trong thiên truyện là lúc bóng hoàng hôn tê tái phủ xuống xóm Ngụ cư giữa ngày đói. Cùng lúc đó, người con trai đáng thương của bà làm nghề đẩy kéo xe trên huyện, đưa một người đàn bà lạ về nhà. - Diễn biến tâm trạng của bà cụ trước việc Tràng nhặt vợ: a. Khởi đầu , bà ngỡ ngàng - ngỡ ngàng trước việc có một người phụ nữ lạ xuất hiện trong nhà mình. Trạng thái ngỡ ngàng của bà cụ được nhà văn diễn tả bằng hàng loạt những câu nghi vấn : “Quái sao lại có người đàn bà nào ở trong ấy nhỉ? Người đàn bà nào lại đứng ngay đầu giường thằng con trai mình thế kia? Sao lại chào mình mình bằng u?...” à Thái độ ngạc nhiên của người mẹ, phải chăng cũng là nỗi đau của nhà văn trước một sự thật : chính sự cùng quẫn của hoàn cảnh đã đánh mất ở người mẹ sự nhạy cảm vốn có trước hạnh phúc của con . b. Sau khi hiểu ra là con trai đã có vợ, bà lão không nói gì mà chỉ “cúi đầu im lặng”- một sự im lặng chứa đầy nội tâm : đó là niềm xót xa, buồn vui, lo lắng, thương yêu lẫn lộn . Bà mẹ đã tiếp nhận hạnh phúc của con bằng kinh nghiệm sống, bằng sự trả giá của một chuỗi đời nặng nhọc, bằng ý thức sâu sắc trước hoàn cảnh. - Bằng lòng nhân hậu thật bao dung của người mẹ, bà nghĩ :“Biết rằng chúng nó có nuôi nổi nhau qua được cơn đói khát này không?”.Trong chữ “chúng nó” , người mẹ đã đi từ lòng thương con trai để ngầm chấp nhận người đàn bà lạ làm con dâu của mình. - Rồi tình thương lại chìm vào nỗi lo , tạo thành một trạng thái tâm lý triền miên day dứt : bà nghĩ đến bổn phận chưa tròn , nghĩ đến ông lão, đến con gái út, nghĩ đến nỗi khổ của đời mình, nghĩ đến tương lai của con …để cuối cùng dồn tụ bao lo lắng – yêu thương trong một câu nói giản dị : “ Chúng mày lấy nhau lúc này, u thương quá” c. Đặc biệt là sau một ngày con trai có vợ, người mẹ giàu lòng thương con ấy thật sự vui và hạnh phúc trước hạnh phúc của con : bà cùng con dâu dọn dẹp, thu vén căn nhà ; trong bữa cơm ngày đói, bà toàn nói chuyện vui để xua đi thực tại hãi hùng, để nhen nhóm niềm tin vào cuộc sống cho con :“ Khi nào có tiền ta mua lấy đôi gà …”. - Thật cảm động, khi Kim Lân để cái ánh sáng kỳ diệu của tình mẫu tử toả ra từ nồi cháo cám : “Chè khoán đây, ngon đáo để cơ”.Chữ ‘ngon”này không phải là xúc cảm về vật chất ( xúc cảm về vị cháo cám) mà là xúc cảm về tinh thần : ở người mẹ, niềm tin về hạnh phúc của con biến đắng chát của cháo cám thành ngọt ngào . - Tuy nhiên niềm vui của bà cụ Tứ trong hoàn cảnh ấy vẫn là niềm vui tội nghiệp, bởi thực tại vẫn nghiệt ngã với nồi cháo cám “đắng chát và nghẹn bứ”. 3/ Đánh giá chung : - Nhân vật bà cụ Tứ là một nhân vật tiêu biểu cho vẻ đẹp tình người và lòng nhân ái mà Kim Lân đã gửi gắm trong tác phẩm “ Vợ nhặt”. - Thành công của nhà văn là đã thấu hiểu và phân tích được những trạng thái tâm lý khá tinh tế của con người trong một hoàn cảnh đặc biệt .Vượt lên hoàn cảnh vẫn là một vẻ đẹp tinh thần của những người nghèo khổ. =>“Vợ nhặt” là ca về tình người của những người nghèo khổ, đã biết sống cho ra người ngay giữa thời túng đói quay quắt . 4 4/ Nhân vật Mỵ trong truyện ngắn “Vợ chồng Aphủ” của Tô Hoài - Mỵ là một trong hai nhân vật trung tâm trong truyện ngắn “Vợ chồng Aphủ” của nhà văn Tô Hoài. - Xuất hiện trong tác phẩm , Mỵ là một cô gái trẻ trung , có cuộc sống khổ nhục và số phận nô lệ nhưng lại tiềm tàng một sức sống và khát vọng tự do mạnh liệt. Cụ thể: 1/ Trước khi bị bắt về làm dâu trừ nợ cho thống lý Ptra,Mỵ là một cô gái : - Trẻ trung,yêu đời, có khát vọng hạnh phúc.Cần cù lao động,hiếu thảo với cha. Có tài thổi kèn lá, được nhiều trai bản yêu mến… à Lẽ ra Mỵ phải được sống hạnh phúc. 2/Từ khi Mỵ bị bắt về làm dâu trừ nợ : a.Cuộc sống cùng khổ, bế tắc của Mỵ: - Về thể xác : + Mị bị đối xử chẳng khác gì nô lệ : bị bóc lột tận cùng sức lao động (“Tết xong thì lên núi hái thuốc phiện, giữa năm thì giặc đay, xe đay, đến mùa thì đi nương bẻ bắp, và dù lúc đi hái củi lúc bung ngô, lúc nào cũng gày một bó đay trong cánh tay để tước thành sợi. Bao giờ cũng thế, suốt năm suốt đời như thế. Con ngựa con trâu làm có có lúc , đêm nó còn được đúng gãi chân nhai cỏ, đàn bà con gái trong nhà này thì vùi đầu vào công việc cả đêm cả ngày”) + Bị A Sử đánh đập hành hạ, trói đứng. à Mị bị đẩy vào tình trạng câm lặng , “Mị tưởng mình là con trâu, con ngựa”, thậm chí còn không bằng con trâu, con ngựa. - Về tinh thần : + Cuộc sống tinh thần của Mị trong nhà thống lí Pá Tra bị định đoạt bởi thần quyền (bị cúng trình ma). + Hôn nhân không tình yêu (Mị phải sống với A Sử- một người mà Mị không hề có tình yêu thương) + Mị bị giam hãm trong một không gian chật hẹp : ở trong cái buồng “ kín mít, có một chiếc cửa sổ một lỗ vuông bằng bàn tay, lúc nào cũng trong ra cũng chỉ thấy trăng trắng, không biết là sương hay là nắng” – căn buồng gợi lên không khí tù túng, chập hẹp như một nhà tù giam hãm cuộc đời Mị . + Mị mất hết cảm giác, thậm chí mất hẳn đời sống ý thức, sống mà như chết(“ lúc nào cũng cúi mặt buồn rười rượi”; “ lùi lũi như con rùa nuôi trong xó cửa”.) => Mị thật sự bị đẩy vào tình trạng cùng khổ về vật chất, bế tắc về tinh thần. c. Sức sống mãnh liệt và khát vọng hạnh phúc của Mị ( qua 3 lần Mị phản kháng chống lại số phận) : - Lần 1 : Mị định ăn lá ngón để tự tử -> ý thức về cuộc sống tủi nhục của mình> không chấp nhạn kiếp sống “ người-vật” -> Mị tìm đến cái chết như một phương tiện giải thoát chính là hành động để khẳng định lòng ham sống, khát vọng tự do của mình. - Lần 2 : Trong đêm tình xuân,Mị muốn đi chơi: + Tiếng sáo gọi bạn làm Mỵ nhớ lại những tháng ngày tươi đẹp trong quá khứ . + Mị lấy rượu ra uống“ ừng ực từng bát”- Phải chăng Mị đang uống khát khao, mơ ước, căm hận vào lòng. + Khát vọng sống bừng lên trong Mị “ Mị trẻ lắm, Mị vẫn còn trẻ, Mị muốn đi chơi”. + Mị thấy phơi phới trở lại, đến góc nhà lấy ống mỡ xắn một miếng bỏ vào đĩa đèn cho sáng -> thắp sáng niền tin, từ giã tăm tối. + Mị lấy váy áo định đi chơi. Bị A Sử trói vào cột nhà, Mị vẫn thả hồn theo cuộc chơi, tâm hồn Mị cứ bồng bềnh bay theo tiếng sáo… - Lần 3 :Đêm mùa đông, Mị cởi trói cho APhủ : + Chứng kiến cảnh APhủ bị hành hạ có nguy cơ phải chết, lúc đầu Mị không quan tâm “ dù APhủ có là cái xác chết đứng đấy cũng vậy thôi” -> Phải chăng đó là chứng tích của việc Mị bị đày đoạ một cách đau đớn cả về thể xác và tinh thần làm cho Mị từ một phụ nữ nhân hậu trở thành vô cảm. + Khi thấy “ dòng nước mắt lấp lánh bò xuống hai hõm má đã đen xám lại” của APhủ, Mị đã xúc động.Thương mình, thương người -> Mị quyết định cởi trói cho APhủ. + Mị đứng lặng trong bóng tối rồi chạy theo APhủ trốn khỏi Hồng Ngài với một lí do “ Ở đây thì chết mất”-> hành động tự giải thoát khỏi số phận tăm tối của Mị hoàn toàn mang tính tự phát : Cởi trói cho APhủ cũng chính là Mị đã cởi trói cho cuộc đời mình.Chấp nhận cuộc sống trâu ngựa và khao khát được sống một cuộc sống của con người ; khát vọng hạnh phúc đã giúp Mị chiến thắng số phận tăm tối. 3/ Đánh giá chung về nhân vật Mỵ: - Cuộc đời, số phận và phẩm chất của Mỵ trong tác phẩm, tiêu biểu cho số phận, phẩm chất của người dân lao động nghèo miền núi Tây Bắc dưới sự áp bức, bóc lột của bọn phong kiến chúa đất và thực dân à góp phần làm nên tư tưởng chủ đề của tác phẩm “Vợ chồng Aphủ”. - Cũng qua nhân vật Mỵ, người đọc cảm nhận được bút pháp “biện chứng tâm hồn” hết sức tinh tế, độc đáo và điêu luyện của Tô Hoài trong việc khắc họa chân dung của những người lao động bị áp bức bằng một cái nhìn ấm áp, đầy tin yêu và trân trọng. 5 5/ Nhân vật TNú trong truyện ngắn “Rừng xà nu” của Nguyện Trung Thành: - TNú là nhân vật anh hùng, người con vinh quang của dân làng Xôman, được xuất hiện trong tác phẩm “Rừng xà nu” bằng những nét độc đáo, giàu chất sử thi. 1/ Về lai lịch : Tnú là người Strá, mồ côi cha mẹ từ rất sớm, được dân làng Xô Man cưu mang- đùm bọc. (Đúng như lời cụ Mết nói :”…đời nó khổ nhưng bụng nó sạch như nước suối làng ta”) 2/ Phẩm chất, tính cách: - Tnú đã giác ngộ cách mạng và làm liên lạc cho cách mạng từ nhỏ,thông minh, gan dạ, giàu tự trọng... ( vào rừng cùng Mai tiếp tế cho các cán bộ;làm liên lạc, giặc vây các ngả đường thì xé rừng mà đi, qua sông lựa chỗ thác mạnh mà bơi, “vì chỗ nước êm thằng Mĩ hay phục”.- Bị giặc bắt thì nuốt luôn cái thư vào bụng, bị tra tấn không khai; một mình xông ra giữa vòng vây của kẻ thù trong tay không có vũ khí; bị giặc bắt, bị đốt mười đầu ngón tay vẫn không kêu than...- Học chữ thua Mai thì lấy đá đập vào đầu -> lòng tự trọng và ý chí quyết tâm cao. è Phẩm chất anh hùng là cơ sở để làm nên hành động anh hùng của Tnú. - Một người biết vươn lên mọi đau đớn và bi kịch cá nhân +Bản thân 2 lần bị giặc bắt, bị tra tấn dã man( tấm lưng chằng chịt những vết chém, hai bàn tay bị đốt mỗi ngón chỉ còn lại hai đốt; vợ con bị giặc giết hại...) Tnú không khuất phục, kiên cường, bền gan gia nhập bộ đội để cầm súng bảo vệ dân làng, quê hương, đất nước. - Là người có ý thức và tinh thần kỷ luật cao: Xa bản làng ba năm, tuy nhớ nhà, nhớ quê hương, nhưng phải được cấp trên cho phép anh mới về và chỉ về đúng một đêm như qui định trong giấy phép. - Là một người giàu tình yêu thương người thân và quê hương bản làng: + Yêu thương vợ con: Chứng kiến cảnh vợ con bị kẻ thù tra tấn dã man anh không kìm được nỗi đau đang đốt cháy lòng mình: “anh đã bứt đứt hàng chục trái vả mà không hay. Anh chồm dậy (...) ở chỗ hai con mắt anh bây giờ là hai cục lửa lớn”--->Yêu thương – căm thù đốt cháy trong hai con mắt - một chi tiết dữ dội, bi thương. + Yêu bản làng, yêu quê hương đất nước: Trên đường trở về thăm làng, Tnú nhớ từng gốc cây, nhớ tiếng chày giã gạo....cũng chính vì tình yêu quê hương mà Tnú đã tham gia là cách mạng, chịu nhiều đau thương....vì sự yên bình của quê hương, đất nước. è Tnú là một nhân vật tư tưởng có sôi lôi cuốn không chỉ bởi tính triết lý mà còn bởi tính triết lý mà còn bởi tính trữ tình, tính hình tượng. - Đặc biệt hình ảnh bàn tay Tnú là chi tiết nghệ thuật giàu sức ám ảnh : Bàn tay ấy cũng có một cuộc đời: + Đó từng là bàn tay trung thực và tình nghĩa, từng cẩm phấn viết chữ anh Quyết dạy cho, từng cầm đá đập vào đầu khi quên chữ, từng đặt lên bụng mình mà nói “Cộng sản ở đây này”, từng được Mai cầm bàn tay ấy mà khóc khi Tnú thoát ngục trở về ..... + Khi giặc đốt 10 đầu ngón tay, bàn tay thành chứng tích của tôi ác và lòng hận thù. Hận thù đã khiến bàn tay Tnú thành bàn tay quả báo (mười ngọn đuốc từ ngón tay Tnú đã châm bùng lên ngọn lửa nổi dậy của dân làng Xô Man; bàn tay chỉ còn hai đốt mỗi ngón vẫn cầm giáo, cầm súng lên đường trả hận.... 3/ Đánh giá chung về nhân vật : - Câu chuyện bi tráng về cuộc đời Tnú - cuộc đời của một con người mang ý nghĩa cuộc đời của một dân tộc.Nhân vật Tnú mang đậm tính sử thi – nhân vật ấy gánh nặng số phận lịch sử.- Dù có nhiều dị biệt, Tnú vẫn là kiểu nhân vật sánh vai với các anh hùng trong trường ca Đam San, Xinh Nhã của núi rừng Tây Nguyên. - Tnú là nhân vật trung tâm của truyện. Cuộc đời của Tnú tiêu biểu cho số phận và con đường của các dân tộc Tây Nguyên, từ trong đau thương, phẫn uất quật khởi vùng dậy chiến đấu. - Hình tượng Tnú, với cuộc đời và số phận đầy bi tráng đã thể hiện cụ thể mâu thuẫn không đội trời chung giữa những người dân cách mạng Tây Nguyên với lũ giặc độc ác, man rợ, cắt nghĩa sâu sắc lí do tại sao người Tây Nguyên (và cả đất nước Việt Nam trong thời đại chống Mĩ) lại vùng dậy như thác đổ bão lay quyết chiến đấu để bảo vệ hạnh phúc riêng tư và hạnh phúc cộng đồng 6 6/ Nhân vật Việt – chiến trong truyện ngắn “Những đứa con trong gia đình” của nhà văn Nguyễn Thi Chiến và Việt – “khúc hạ nguồn” của dòng sông truyền thống gia đình. 1/ Điểm chung của hai chị em: - Hai chị em cùng sinh ra trong một gia đình chịu nhiều mất mát, đau thương ( cùng chứng kiến cái chết đau thương của ba má do bọn Mỹ gây nên) à căm thù giặc sâu sắc nên có cùng ý chí : trả thù cho ba má , cho quê hương và có cùng nguyện vọng được cầm súng đánh giặc. -Tình yêu thương là vẻ đẹp tâm hồn của hai chị em ( tình cảm này được thể hiện sâu sắc và cảm động nhất trong cái đêm chị em chuẩn bị lên đường nhập ngũ) . - Cả hai chị em đều là những chiến sĩ gan góc, dũng cảm . Đánh giặc là niềm say mê lớn nhất của hai chị em và cũng là của tuổi trẻ miền Nam . - Hai chị em có những nét ngây thơ, thậm chí có phần trẻ con ( giành nhau bắt ếch, giành nhau thành tích bắn tàu chiến giặc, giành nhau ghi tên tòng quân..) 2/ Điểm riêng ở từng nhân vật: a/ Chiến - hơn Việt một tuổi nhưng Chiến người lớn hơn hẳn : - Sinh ra trong hoàn cảnh khốc liệt của chiến tranh nên Chiến già dặn hơn so với tuổi . - Mẹ mất , Chiến trở thành một người đảm đương tất cả chuyện gia đình ( chuyện ruộng vườn, chuyện nhà cửa, chuyện bàn thờ, chuyện bàn định việc nhà, việc nước với em trai) - Chiến mang hình dáng và tính cách của má Việt ( thân người to và chắc nịch – thân hình của người sinh ra để gánh các, chống chọi, để chịu đựng và chiến thắng; biết lo liệu, toan tính việc nhà ý hệt má…) - Biết nhường nhịn em ; hồn nhiên , trẻ trung , thích làm duyên, ( vào bộ đội, Chiến mang theo chiếc gương soi). - Chiến còn là một cô gái đầy ý thức trách nhiệm với quê hương, đất nước ( yêu thương bà con làng xã, quyết lên đường tham gia chiến đấu vì ý thức trách nhiệm với gia đình và quê hương bằng một tinh thần quyết chiến “Nếu giặc còn thì tao mất”) => Chiến là một mẫu nhân vật nữ tiêu biểu cho người phụ nữ Nam Bộ : giỏi giang, hiếu thảo, hết lòng yêu thương gia đình, quê hương .Là người con gái kết tinh trong mình truyền thống chống giặc ngoại xâm của dân tộc. b/ Việt – nhân vật được nhà văn tập trung khắc họa rõ nét nhất từ tâm hồn, tính cách đến hành động. - Việt có nhiều nét dễ thương của cậu bé mới lớn : lộc ngộc vô tư, hồn nhiên, ngây thơ và hiếu động ( ở nhà : tranh phần hơn với chị; khi vào bộ đội, được anh em xem như em út; “giấu chị như giấu của riêng ”…) - Trong đánh giặc, Việt tỏ ra gan góc, dũng cảm ( khi bị thương, nằm một mình giữa chiến trường, Việt vẫn luôn trong tư thế chờ giặc đến “Tao sẽ chờ mày! Trên trời có mày, dưới đất có mày, cả khu rừng này còn mình tao.Mày có bắn tao thì tao cũng bắn được mày…”) 3/ Đánh giá: Có thể nói, lòng yêu nước – căm thù giặc luôn là thước đo quan trọng nhất về phẩm giá con người ở tất cả các nhân vật của Nguyễn Thi. - Chiến và Việt là biểu tượng cao đẹp của lớp thanh niên trưởng thành trong khói lửa chiến tranh + Họ ý thức được sự mất mát mà kẻ thù gây ra cho gia đình và quê hương. + Nỗi đau không làm họ nhụt chí mà càng mài sắc thêm ý chí căm thù giặc. 7 7/ Nhân vật người đàn bà hàng chài Trong truyện ngắn “Chiếc thuyền ngoài xa” của Nguyễn Minh Châu - Xuất hiện trong “Chiếc thuyền ngoài xa”, người đàn bà hàng chài hiện lên là một người phụ nữ có số phận bất hạnh nhưng lại giàu tình thương con và thấu hiểu lẽ đời. 1/Về tên gọi : “Người đàn bà” được gọi một cách phiếm định . à Ý nghĩa của cách gọi phiếm định : Người đàn bà khốn khổ ấy cũng như biết bao người phụ nữ khác, họ cũng đang rất khốn khổ , tồn tại thật trên cõi đời này. 2/ Cảnh ngộ : Vốn sinh ra trong một gia đình khá giả nhưng người đàn bà làng chài lại là một người có ngoại hình xấu xí. Những nét thô kệch ấy, trong lam lũ vất vả bởi những lo toan và mưu sinh thường nhật, khi ngoài bốn mươi, lại càng trở nên đậm nét ““khuôn mặt mệt mỏi”… à Tội nghiệp, bất hạnh. 3/ Tính cách và tấm lòng của chị: a/ Là một người đàn bà biết nhẫn nhục, chịu đựng : bao lần bị chồng đánh vẫn “cam chịu đầy nhẫn nhục không hề kêu một tiếng, không chống trả, cũng không tìm cách trốn chạy”, và xem chuyện chịu đựng là một lẽ đương nhiên mà những người đàn bà vùng biển như bà phải chấp nhận.Với chị, muốn tồn tại thì phải chấp nhận. b/Là một người phụ nữ giàu tự trọng, thấu hiểu lẽ đời, có tình thương con vô bờ bến”: - Khi biết cảnh mình bị chồng đánh, cảnh đứa con trai phản ứng lại cha bị người khách lạ phát hiện , chị thấy “đau đớn- vừa đau đớn vừa vô cùng xấu hổ, nhục nhã”. .Chị không muốn bất cứ ai chứng kiến và thương xót ( kể cả thằng Phác- đứa con yêu của chị ) và chị “sống cho con chứ không thể sống cho mình”. - Thân thể bị chà đạp, nhân phẩm bị xúc phạm nhưng chị không hề để ý, không hề bận tâm bởi chị là một người mẹ giàu lòng vị tha, chấp nhận hy sinh, thua thiệt về mình chứ không óan trách người khác, nên bao nhiêu đau khổ ,chị đều gánh chịu “tình thương con cũng như nỗi đau, cũng như cái sự âm thầm trong việc hiểu thấu cái lẽ đời, hình như mụ chẳng bao giờ để lộ rõ rệt ra bề ngoài” .- Khi ở toà án huyện, chính chị đã đem đến cho Phùng và Đẩu những xúc cảm mới: + Lúc đầu, chị rụt rè, sợ hãi khi đến một không gian lạ. Chị tìm một góc tường ở chốn công đường để ngồi; chị thưa gửi, xưng “con”và van xin “ con xin lạy quí toà…” à Trông chị thật nhỏ bé, tội nghiệp chốn công đường. + Khi đã lấy được tự tin, tâm thế thay đổi, chị đột ngột chuyển cách xưng hô : “ Chị cám ơn các chú!...”à một sự hoán đổi thật ý nghĩa : ở đây, lẽ đời đã thắng. Người lao động lam lũ, nghèo khổ không có uy quyền nhưng cái tâm của một người mẹ giàu tình thương con, thấu hiểu lẽ đời là một thứ quyền uy có sức công phá lớnà điều này đã làm chánh án Đẩu và nghê sĩ Phùng thức tỉnh và ngộ ra nhiều điều. Người phụ nữ sâu sắc , thấu hiểu lẽ đời , cảm thông chấp nhận san sẻ nỗi khổ với chồng . Với chị , hạnh phúc chính là vì con 3/ Đánh giá chung về nhân vật : - Hình ảnh người đàn bà hàng chài trong “Chiếc thuyền ngoài xa”là hình ảnh điển hình cho số phận đau thương, bất hạnh củ
File đính kèm:
- He thong Kthuc on thi DH mon Van.doc