Kiểu bài so sánh
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Kiểu bài so sánh, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
KIỂU BÀI SO SÁNH Cấu trúc chính của chương Gồm 3 phần: Thứ nhất : Làm quen với dạng đề so sánh văn học Thứ hai: Các bước tiến hành và nội dung cơ bản của kiểu bài so sánh văn học Thứ ba: Một số đề tham khảo LÀM QUEN VỚI DẠNG ĐỂ SO SÁNH VĂN HỌC Đây là một kiểu bài mới, chưa được cụ thể hóa thành một bài học riêng trong chương trình Ngữ văn bậc trung học phổ thông, chưa có hướng dẫn cụ thể về phương pháp làm bài trong SGK, do đó đã ảnh hưởng ít nhiều đến chất lượng làm bài của học sinh cũng như quá trình định hướng ôn tập cho học sinh từ phía giáo viên Đối tượng của kiểu bài so sánh văn học có thể là 2 nhân vật, 2 tình huống, 2 cái tôi trữ tình, 2-3 chi tiết nghệ thuật, 2 đoạn thơ hay 2 đoạn văn xuôi… Kiểu bài so sánh có thể diễn ra ở các tác phẩm cùng một tác giả, nhưng cũng có thể diễn ra ở những tác phẩm của các tác giả cùng thời hoặc không cùng một thời đại, giữa những tác phẩm của những trào lưu, trường phái khác nhau của một nền văn học Dạng câu hỏi đặc trưng của kiểu bài này trong đề thi Đại học Cao đẳng thường là “Cảm nhận của anh/chị về hai nhân vật, hai đoạn thơ, hai đoạn văn hay hai chi tiết sau…” chứ hầu như không dùng từ “so sánh”, nhưng học sinh cũng phải tinh ý nhận ra đây là kiểu bài so sánh để tiến hành lập dàn ý cho thích hợp Mục đích cuối cùng của kiểu bài này là yêu cầu học sinh phải chỉ ra được chỗ giống và khác nhau giữa hai tác phẩm, hai tác giả, từ đó thấy được những mặt kế thừa, những điểm cách tân của từng tác giả, từng tác phẩm; thấy được vẻ đẹp riêng của từng tác phẩm; sự đa dạng muôn màu của phong cách nhà văn. Kiểu bài này cũng óp phần hình thành kĩ năng lí giải nguyên nhân làm nên sự khác nhau giữa các hiện tượng văn học CÁC BƯỚC TIẾN HÀNH VÀ NỘI DUNG CƠ BẢN CỦA KIỂU BÀI SO SÁNH VĂN HỌC Cũng giống như tất cả các kiểu bài khác, kiểu bài so sánh cũng bắt buộc học sinh phải kết cấu bài viết gồm 3 phần: Mở bài, Thân bài và Kết bài MỞ BÀI Dẫn dắt (mở bài trức tiếp không cần bước này) Nêu yêu cầu của đề (Giới thiệu khái quát về các đối tượng so sánh ) THÂN BÀI Giới thiệu vài nét về tác giả và tác phẩm Làm rõ đối tượng thứ nhất cần so sánh ( ở bước này học sinh cần kết hợp nhiều thao tác lập luận nhưng chủ yếu là thao tác lập luận phân tích) Làm rõ đối tượng thứ hai cần so sánh (ở bước này học sinh cần kết hợp nhiều thao tác lập luận nhưng chủ yếu là thao tác lập luận phân tích) So sánh : nét tương đồng và khác biệt giữa hai đối tượng trên cả hai bình diện nội dung và hình thức nghệ thuật (ở bước này học sinh cần kết hợp nhiều thao tác lập luận nhưng chủ yếu là thao tác lập luận so sánh) Lí giải sự khác biệt : thực hiện thao tác này cần dựa vào bình diện: bối cảnh xã hội, văn hóa mà từng đối tượng tồn tại; phong cách nhà văn; đặc trưng thi pháp của thời kì văn học …( bước này vận dụng nhiều thao tác lập luận nhưng chủ yếu là lập luận phân tích) Lưu ý. Nếu làm được bước này thì rất tốt, nếu không cũng không ảnh hưởng nhiều đến điểm số của bài văn. KẾT BÀI Khái quát lại yêu cầu của đề bài ( khái quát những nét giống nhau và khác nhau tiêu biểu) Phát triển, mở rộng, nâng cao vấn đề ( có thể nêu những cảm nghĩ của bản thân) Lưu ý: Trong quá trình làm bài học sinh không nhất thiết phải tuân thủ tất nghiêm ngặt quy trình trên. Có thể phối hợp nhiều bước cùng một lúc. Chẳng hạn có thể đồng thời vừa phân tích, làm rõ vừa thực hiện nhiệm vụ so sánh trên hai bình diện nội dung và nghệ thuật, vừa lí giải nguyên nhân khác nhau. Hoặc chỉ trong bước so sánh học sinh có thể kết hợp vừa so sánh vừa lí giải. Tuy nhiên nếu thực hiện theo cách này thì bài viết không khéo sẽ rơi vào rối rắm, luẩn quẩn. MỘT SỐ LỖI HỌC SINH HAY MẮC PHẢI KHI LÀM KIỂU BÀI SO SÁNH 1. Không phân chia đều bố cục bài, chẳng hạn sa vào phân tích đối tượng cần so sánh thứ nhất mà bỏ quên đối tượng thứ hai, đến khi sắp hết thời gian, viết vội vàng vài câu cho có, dẫn đến kết cấu bài mất cân đối “đầu voi đuôi chuột”. 2. Không xác định được kiểu bài so sánh, sa vào kiểu bài phân tích, bình giảng. 3. Thông thường ngoài cách phân tích từng đối tượng rồi chỉ ra điểm giống nhau, điểm khác nhau, lí giải nguyên nhân như phương pháp nêu trên, học sinh có thể lựa chọn phương án so sánh theo các bình diện, nghĩa là đưa ra luận điểm và phân tích chứng minh, lí giải song song hai đối tượng. Cách làm này có ưu thế là hai đối tượng cần so sánh luôn được song chiếu với nhau, nhưng cách làm này lại đòi hỏi học sinh có tư duy tốt, sắc sảo và rành mạch, nếu không bài viết sẽ rơi vào tình trạng luẩn quẩn, có khi viết đi viết lại một luận điểm, bài văn mất đi tính mạch lạc. 4. Không nắm được phương pháp làm bài cũng như yêu cầu của đề, viết linh tinh, lan man. Chú ý Đề khắc phục những lỗi cơ bản trên, ngoài việc học sinh tự trang bị cho mình kiến thức nền cần thiết cần phải nắm vững các thao tác làm bài. Đặc biệt là phải rèn được thao tác lập dàn ý trước khi viết bài, dù chỉ là gạch ra những ý sơ giản nhất trên giấy nháp. Ngoài ra cũng cần phân chia thời gian hợp lí cho mỗi phần của bài thi, việc đầu tư thời gian cho mỗi phần trong bài làm quyết định không nhỏ đến chất lượng và điểm số của bài thi. MỘT SỐ ĐỀ BÀI THAM KHẢO ĐỀ 1: Nghệ thuật miêu tả tương phản của Nguyễn Tuân và Thạch Lam trong hai tác phẩm Chữ người tử tù và Hai đứa trẻ. Gợi ý: MỞ BÀI: Giới thiệu khái quát về các đối tượng so sánh. Tương phản là 1 trong những đặc điểm nổi bật thể hiện nét nghệ thuật của văn học lãng mạn. Trong văn học Việt Nam giai đoạn 1930 -1945 có hai nhà văn cũng theo khuynh hướng Văn học Lãng mạn là Thạch Lam và Nguyễn Tuân. Cả hai tác giả này đã vận dụng thành công nghệ thuật miêu tả tương phản trong 2 tác phẩm “Chữ người tử tù” (Nguyễn Tuân) và “Hai đứa trẻ” (Thạch Lam). THÂN BÀI: a. Giải thích: Đặc điểm của sáng tác lãng mạn và yêu cầu sử dụng nghệ thuật tương phản: - Đặc điểm của sáng tác lãng mạn: + Biểu hiện cái nhìn chủ quan của nhà văn trước cuộc đời- hình tượng nhân vật ít nhiều mang phảng phất bóng dáng cái tôi tác giả. + Hướng tới khám phá và thể hiện những gì độc đáo, khác thường, kì lạ. - Yêu cầu sử dụng nghệ thuật miêu tả tương phản: + Hiệu quả của miêu tả tương phản: làm nổi bật các đặc điểm của từng đối tượng, gây ấn tượng mạnh mẽ- phù hợp với yêu cầu của sáng tác lãng mạn. + Trở thành biện pháp nghệ thuật đặc thù của sáng tác lãng mạn. b. Phân tích nghệ thuật miêu tả tương phản trong hai tác phẩm: * Làm rõ đối tượng thứ nhất: - Chữ người tử tù: + Tính cách và hoàn cảnh: . Hoàn cảnh: Môi trường tù ngục đen tối, xấu xa, cảnh ngộ éo le với những áp lực nặng nề phải đối mặt dễ khiến con người ta tha hoá. . Tính cách: Có nhân cách, lương tâm- khác biệt với thế giới đen tối, tội lỗi; có dũng khí- ở Huấn Cao là dũng khí của bậc anh hùng, ở quản ngục là dũng khí của bậc hiền nhân. Chính nhân cách, lương tâm và dũng khí giúp họ chiến thắng hoàn cảnh. => Nguyễn Tuân luôn nhìn con người ở phương diện tài hoa nghệ sĩ. + Ánh sáng và bóng tối: . Bóng tối: Theo nghĩa thực là của đêm khuya, của buống giam tử tù- nơi ánh sáng không thể lọt qua được; theo nghĩa tinh thần lại chính là cảnh ngộ éo le mà con người phải đối mặt( Huấn Cao- án tử hình, quản ngục- môi trường sống không phù hợp với tính cách con người ông). Là biểu tượng cho cái xấu xa. . Ánh sáng: Theo nghĩa thực là bó đuộc tẩm dầu khói toả như đám cháy nhà- thứ ánh sáng khá mờ nhạt; theo nghĩa tinh thần là ánh sáng toả ra từ cái đẹp của nghệ thuật ( chữ Huấn Cao) và của tư thế tâm hồn con người. chính thứ ánh sáng này soi sáng con đường để những kẻ tri âm đến với nhau. => Đó là sự đối lập giữa cái đẹp với cái xấu xa. * Làm rõ đối tượng thứ 2: - Hai đứa trẻ: + Hoàn cảnh và tính cách: . Hoàn cảnh: Nghèo khó, tù túng, đơn điệu, buồn tẻ-một kiểu hoàn cảnh có thể tạo ra sự chết mòn về tinh thần. . Tính cách: sự hồn nhiên, ngây thơ trong cách nhìn và rung động; sống với một tấm lòng nhân hậu và thế giới tâm hồn trong sáng, phong phú. => Tấm lòng yêu thương, cái nhìn trìu mến của nhà văn dành cho những tâm hồn trẻ thơ. + Bóng tối và ánh sáng: . Bóng tối: Theo nghĩa thực là của phố huyện trong thời khắc chiều muộn và đêm khuya; theo nghĩa tinh thần là nỗi buồn đang lan toả, thấm thía và trĩu nặng dần trong tâm hồn nhân vật. . Ánh sáng: Theo nghĩa thực là của thiên nhiên( ráng chiều, vì sao đom đóm) và của cuộc sống con người ( các loại đèn, bếp lửa); theo nghĩa tinh thần là hồi quang kí ức về một thiên đường đã mất và niềm hi vọng dù le lói, mong manh. => Đó là sự đối lập, tương phản giữa cuộc đời thường nhật và khát vọng trong tâm hồn con người. * So sánh: - Điểm giống: + Cả hai tác phẩm đều phát hiện và miêu tả sự đối lập giữa tính cách và hoàn cảnh. + Cả hai tác phẩm đều phát hiện và miêu tả sự đối lập, tương phản giữa ánh sáng và bóng tối mà cả ánh sáng và bóng tối đều hiện diện với nghĩa thực và nghĩa tinh thần. - Điểm khác: Cách xử lí mối quan hệ cụ thể của tương quan bóng tối- ánh sáng, tính cách- hoàn cảnh: + Ánh sáng và bóng tối: . Chữ người tử tù: Sự chiến thắng tuyệt đối của ánh sáng với bóng tối, của cái đẹp với cái xấu xa. . Hai đứa trẻ; Ở cảnh thực, ánh sáng có nguy cơ bị bóng tối nuốt chửng, đè bẹp để rồi thay thế hoàn toàn. Ở đời sống tinh thần, ánh hồi quang kí ức có rực rỡ nhưng cũng nhanh chóng vụt tắt, hi vọng có tồn tại song rất mong manh. + Tính cách và hoàn cảnh: . Chữ người tử tù: Sự chiến thắng tuyệt đối của tính cách với hoàn cảnh: Quản ngục dù sống trong hoàn cảnh đen tối vẫn giữ niềm đam mê cái đẹp và một thiên lương trong sáng. Huấn Cao dù phải đối diện với án tử hình, với cả một hệ thống hiện thân của thế lực đen tối vẫn hiên ngang bất khuất, vẫn bộc lộ tài năng và tấm lòng đáng quý. . Hai đứa trẻ: hoàn cảnh có sự tác động ở mức độ nhất định: Cuộc sống nghèo khó, buồn tẻ và không khí buồn lặng của cảnh ngày tàn, chợ tàn thấm vào tâm hồn Liên nỗi buồn man mác. Những khó khăn trong cuộc sống khiến Liên già trước tuổi- đảm đang tháo vát khi vẫn đang còn tuổi trẻ con. * Lí giải sự khác biệt: - Do bối cảnh xã hội, văn hoá đặc biệt và quan điểm sáng tác khác nhau của các nhà văn cùng thời nên tạo nên những nét vừa tương đồng, vừa dị biệt của Chữ người tử tù và Hai đứa trẻ trong sử dụng nghệ thuật miêu tả tương phản. - Với Nguyễn Tuân, cảm hứng thẩm mỹ của ông bắt nguồn từ cái đẹp lớn lao, cái cao cả, bi hùng hoặc mô tả những nhân cách lớn... nên thủ pháp nghệ thuật cũng xây dựng dựa trên sự đối lập gay gắt, ánh sáng và bóng tối; tính cách và hoàn cảnh cũng được sử dụng nhằm miêu tả những tương phản mạnh mẽ, những chuyển biến bất ngờ, đột ngột. Đó vừa là một thủ pháp trong xây dựng tình huống truyện, vừa là sự dẫn dắt đi đến kết thúc của sự chiến thắng giữa chân lý, cái đẹp với cái xấu, cái ác. - Thạch Lam do chỉ chú ý đến những cái bình thường, giản dị, nhỏ nhoi trong cuộc sống nên tính cách và hoàn cảnh; ánh sáng và bóng tối trong tác phẩm của ông không có sự chuyển biến dữ dội, bất ngờ. KẾT LUẬN: - Cả hai tác phẩm đều mang màu sắc lãng mạn, thể hiện cái nhìn và những ấn tượng riêng- chủ quan của nhà văn về cuộc sống và con người. - Xét về mức độ và những biểu hiện cụ thể, có thể thấy Chữ người tử tù làm mẫu mực của kiểu sáng tác lãng mạn còn Hai đứa trẻ dường như đi chênh vênh trên ranh giới giữa hiện thực và lãng mạn nên tuy có gieo vào lòng người đọc những cảm xúc bâng khuâng, những tình cảm man mác và trí tưởng tượng bay bổng, song đồng thời nó cũng đem đến những cảm nhận thấm thía về đời sống hiện thực của con người. Đề 2:Chất sử thi qua hai tác phẩm: Rừng xà nu – Nguyễn Trung Thành và Những đứa con trong gia đình – Nguyễn Thi. Ra đời trong một giai đoạn lịch sử đặc biệt, với hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mĩ gian khổ, ác liệt nhưng cũng rất hào hùng của dân tộc , văn học 1945-1975 là nền văn học của chủ nghĩa yêu nước. Mỗi nhà văn sáng tác trong giai đoạn này phải là một chiến sĩ trên mặt trận văn hóa, dùng ngòi bút của mình để ngợi ca cổ vũ cuộc kháng chiến của toàn dân tộc và văn học trở thành một bộ phận không thể thiếu trong sự nghiệp đấu tranh cách mạng, góp phần vào thắng lợi vĩ đại của dân tộc. Do vậy văn học giai đoạn này là tiếng nói chung của cả cộng đồng dân tộc trước thử thách quyết liệt : Tổ quốc còn hay mất; độc lập tự do hay là nô lệ. Các tác phẩm trong văn học ra đời trong giai đoạn này hầu hết đều mang đậm khuynh hướng sử thi và cảm hứng lãng mạn chính là từ sự chi phối của thời đại. Nhà văn Nguyễn Trung Thành và Nguyễn Thi chính là cũng vậy, họ cùng ngợi ca những con người anh hùng nhưng không ai giống ai, mỗi nhà văn lại có một lối khắc họa nhân vật riêng và chúng ta biết đến cả hai như những cây bút đóng góp tích cực vào nền văn học phục vụ Cách mạng, cổ vũ chiến đấu. Có thể nói “Rừng xà nu” của Nguyễn Trung Thành hay “Những đứa con trong gia đình” của Nguyễn Thi đều là những tác phẩm xuất sắc mang đậm khuynh hướng sử thi và chủ nghĩa anh hùng Cách mạng. Hoà trong dòng chảy văn học dân tộc, khuynh hướng sử thi là một đặc điểm tiêu biểu làm nên giá trị đặc sắc cho nhiều mảng tác phẩm. Từ những thi phẩm gắn bó cùng thời đại như: Việt Bắc (Tố Hữu), Đất nước (Nguyễn Đình Thi), Đất Nước (Nguyễn Khoa Điềm)... đến những áng văn hiện thực như: Đất (Anh Đức), Người mẹ cầm súng (Nguyễn Thi), Đất nước đứng lên (Nguyễn Trung Thành)... đều mang dáng dấp, đặc trưng tiêu biểu. Và nhìn chung, nội dung mà tác phẩm mang khuynh hướng sử thi đề cập thường liên quan đến số phận, vận mệnh cộng đồng; nhân vật trung tâm tiêu biểu cho phẩm chất, khát vọng của cả cộng đồng và được khắc hoạ theo lối lí tưởng hoá trong không gian nghệ thuật hoành tráng. Trong tiến trình lịch sử văn học dân tộc, sự chi phối của thời đại luôn có ảnh hưởng sâu rộng đến trào lưu, quan điểm văn chương,... Đặc biệt, nền văn học Việt Nam giai đoạn 1945-1975 là một sự chuyển mình hòa theo dòng chảy lịch sử với hai cuộc chiến tranh vệ quốc vô cùng cam go và ác liệt. Giữa bối cảnh lịch sử đầy gian khổ ấy, văn học không thể đứng bên lề sự chi phối tất yếu của thời đại. Chính vì vậy, chủ nghĩa cá nhân ở giai đoạn này đã lùi lại để cho cái ta chung hòa cùng cuộc chiến đấu oanh liệt của dân tộc. Văn học trong giai đoạn này đóng vai trò quan trọng là một thứ vũ khí phục vụ Cách mạng, cổ vũ chiến đấu: Dùng cán bút làm đòn xoay chế độ Mỗi vần thơ bom đạn phá cường quyền. (Sóng Hồng) Gánh trên vai trách nhiệm và sứ mệnh thiêng liêng, trọng đại đối với vận mệnh dân tộc, nền văn học của chủ nghĩa yêu nước mang đậm khuynh hướng sử thi trong nhiều thể loại với nhiều tác phẩm. Tác phẩm mang khuynh hướng sử thi trong giai đoạn này thường có nội dung đề cập đến sự kiện mang tầm lịch sử, gắn với số phận của toàn dân tộc. Nhân vật trung tâm ở đây là những con người gắn bó số phận mình với số phận đất nước và kết tinh những phẩm chất cao quý của cộng đồng – trước hết đại diện cho giai cấp, cho dân tộc và thời đại. Với người cầm bút, cũng nhân danh cộng đồng mà ngưỡng mộ, ngợi ca người anh hùng với những chiến công chói lọi. Trên phương diện nghệ thuật, khuynh hướng sử thi thể hiện ở cách xây dựng nhân vật mang tầm vóc, kích cỡ sử thi, được đặt trong sự liên tưởng, so sánh theo lối thi vị hóa, lí tưởng hóa. Đặc biệt, không gian nghệ thuật của tác phẩm gợi nên tất cả sự trang nghiêm, hoành tráng. Nhìn chung, khuynh hướng sử thi của văn học giai đoạn 1945-1975 là sự tiếp nối và phát triển mạnh mẽ khuynh hướng sử thi trong văn học dân tộc nói chung giữa bối cảnh lịch sử của hai cuộc chiến đấu chống Pháp và chống Mĩ cứu nước. “Rừng xà nu” được viết ra vào giữa năm 1965, trong những ngày bắt đầu cuộc chiến tranh cục bộ của đế quốc Mỹ ở miền Nam nước ta. Đó là những ngày sôi sục, quyết liệt, hào hùng: dân tộc ta bước vào cuộc chiến đấu một mất một còn với đế quốc Mỹ. Tuy kể về những sự kiện xảy ra trước đó mấy năm nhưng truyện ngắn này đã tiếp được hơi thở hào hùng của thời đại và hiện thực được mô tả mang đậm ý nghĩa phổ quát. Chuyện của làng Xô Man trở thành chuyện của cả “Đất nước đứng lên” trong cuộc đối đầu lịch sử, và “ Rừng xà nu” như một biểu tượng của tinh thần bất khuất, kiên cường của đồng bào Tây Nguyên nói riêng và đồng bào cả nước nói chung. Hình tượng lớn bao trùm tác phẩm là hình tượng những cây xà nu, rừng xà nu. Đó là nguồn mạch cảm hứng dạt dào, gợi nhà văn suy ngẫm về mạch sống của đất nước, của nhân dân. Nếu như truyện ngắn “Rừng xà nu” của Nguyễn Trung Thành là một bản trường ca bất tận, thì hình ảnh rừng xà nu vừa là khúc nhạc dạt dào, vừa là âm nền cho mọi sự biến hoá về tiết tấu, vừa là cái vĩ thanh láy lại ở cuối truyện gợi âm hưởng vang vọng trong lòng bạn đọc. Giữa bản nhạc đó, xà nu như một tiết tấu trữ tình xen lẫn vào từng khuôn, từng cung bậc. Xà nu gắn bó với cuộc sống tự ngàn đời của dân làng Xô Man: ngọn khói xà nu cay xè mắt bao thế hệ con người, tấm phên có phết nhựa xà nu gắn liền với bao ngôi nhà, ngọn đuốc xà nu góp mặt trong từng góc bếp cho đến buổi họp nhà ưng... Xà nu gắn bó, hoà nhập, ăn sâu vào tiềm thức con người. Xà nu trở thành biểu tượng cho vẻ đẹp phẩm chất và số phận của con người Tây Nguyên. Xà nu hiện lên với một vẻ đẹp xanh rờn hùng vĩ – “đứng trên đồi xà nu ấy trông ra xa, đến hết tầm mắt cũng không thấy gì khác ngoài những đồi xà nu nối tiếp chân trời”. Miêu tả xà nu, Nguyễn Trung Thành chưa bao giờ miêu tả một thân cây riêng lẻ mà luôn có ý thức đặt nó bên cạnh cộng đồng những cây xà nu khác, tất cả đã tạo nên một vẻ đẹp của sự đông đảo, rộng lớn và hùng vĩ. Những cánh rừng xà nu tít tắp, ngút ngàn, chiếm lĩnh tất cả mảnh đất ngọn đồi cũng như tâm tư tình cảm của con người Tây Nguyên. Cũng giống như con người Tây Nguyên tự bao đời, những cây xà nu lớn nhỏ khác nhau nhưng đều mang một vẻ đẹp khỏe khoắn và hoang sơ của rừng núi – “ ấy là một thứ cây hùng vĩ mà cao thượng, man dại và trong sạch, mỗi cây cao vút, ứa nhựa, tán lá vừa thanh nhã vừa rắn rỏi mênh mông, tưởng như đã sống ngàn đời, còn sống đến ngàn đời sau, từng cây, hàng vạn, hàng triệu cây vô tận...”. Và đáng quý hơn, bên trong cái vẻ đẹp man dại đó là một sức sống tràn trề, mãnh liệt. Dưới nòng đại bác, “cả cánh rừng xà nu hàng vạn cây không có cây nào không bị thương. Có những cây bị chặt đứt ngay nửa thân mình, đổ ào ào như một trận bão. Ở chỗ vết thương, nhựa ứa ra, tràn trề, thơm ngào ngạt, long lanh nắng hè gay gắt, rồi dần dần bầm lại, đen và đặc quyện thành từng cục máu lớn...”. Tưởng chừng dưới sức phá huỷ khủng khiếp của bom đạn, rừng xà nu có nguy cơ tàn lụi, nhưng không “cạnh một cây xà nu mới ngã gục, đã có bốn năm cây con mọc lên, ngọn xanh rờn, hình nhọn mũi tên lao thẳng lên bầu trời”. Thế mới biết cuộc sống thật là kỳ diệu, cuộc sống trên mảnh đất Tây Nguyên ấy vẫn cứ tiếp diễn, vẫn cứ sinh sôi, nảy nở như thách thức sự khắc nghiệt của hoàn cảnh. Đó là một sức sống bất diệt, mà mỗi thân cây xà nu kiên cường, bất khuất là một mắc xích không thể tách rời. Cũng như mỗi con người nơi đây, luôn đoàn kết, đồng lòng để đối mặt với kẻ thù hiểm ác. Họ đã sống và chiến đấu kiên cường, bao lớp người đã ngã xuống, thế hệ sau vẫn tiếp tục. Họ kết thành một tập thể nhân dân anh hùng hiên ngang giữa mưa bom bão đạn như bạt ngàn rừng kia, mặc cho một ngày hai lần đại bác, những cây xà nu vẫn vươn lên cao vút, hướng thẳng về phía mặt trời. Và ham ánh nắng mặt trời đến kỳ lạ là cái đặc biệt mà Nguyễn Trung Thành đã phát hiện ở sinh thể thú vị này – “nó phóng lên rất nhanh để tiếp lấy ánh nắng, thứ ánh nắng trong rừng rọi từ trên xuống từng luồng lớn thẳng tắp, lóng lánh vô số bụi vàng từ nhựa cây bay ra, thơm mỡ màng”. Những cây xà nu nhờ ánh nắng mặt trời mà lớn lên, phô ra tất cả vẻ đẹp của nhựa sống tràn trề, ngào ngạt. Rừng xà nu vươn thẳng, vút cao dưới ánh mặt trời cũng như biết bao dân làng Xô Man với khát vọng lí tưởng mãnh liệt, giữa khó khăn, gian khổ và cả hi sinh, mất mát vẫn một lòng hướng đến ánh sáng Cách mạng. Dưới ánh sáng Cách mạng họ trở nên hùng vĩ, đẹp đẽ lạ thường, một vẻ tinh khiết, trong ngần mà sáng chói cũng như những cây xà nu khoe hương thơm ngào ngạt dưới ánh mặt trời, họ toả ngát hương với lí tưởng cao đẹp và một tấm lòng nồng nàn yêu quê hương đất nước. Đó không chỉ là khát vọng của một làng Xô Man mà còn đại diện cho phẩm chất quý báu của biết bao con người Tây Nguyên, của đồng bào miền Nam giữa những năm tháng chiến tranh ác liệt. Cánh rừng xà nu mênh mông vô tận gợi lên cho câu chuyện một không khí hoang vu hùng vĩ, của đại ngàn mà ở đó ghi lại số phận những con người của làng Xô Man. Những đoạn rừng xà nu ngổn ngang gãy đổ trong mưa đạn, những cây lớn đã chết, những cây con vẫn tiếp tục vươn lên, những cây lớn ngã xuống đã có thế hệ cây con mọc lên thay thế, cứ như vậy, tầng tầng tầng lớp lớp xà nu đã duy trì cái màu xanh bền bỉ của núi rừng. Dân làng Xô Man cũng vậy, dưới làn đạn kẻ thù, không biết bao nhiêu người đã ngã xuống, trước có, sau có, từ anh Xút, bà Nhan, đến Mai, rồi con Mai đã hi sinh... đất chép tội dày thêm, tội ác quân thù chồng chất và tấm lòng yêu nước, căm thù giặc của nhân dân càng lúc càng ngút lên cao vợi. Dân làng ra sức chiến đấu, cụ Mết cầm giáo, Tnú cầm súng, rồi đến Dít, đến Heng... họ vẫn mãi chiến đấu cho lí tưởng và khát vọng của dân tộc – cuộc đấu tranh không ngừng không nghỉ với khí thế sục sôi. Ý chí và quyết tâm đó cứ thế truyền lại, truyền lại cho thế hệ mai sau. Có thể nói hình ảnh rừng xà nu như thổi một cơn gió của Tây Nguyên vào tác phẩm. Rừng xà nu chiếm lĩnh và trở thành không gian nghệ thuật cho truyện ngắn – không gian bao bọc câu chuyện về cuộc đời và số phận những con người Tây Nguyên. Cây xà nu xuyên suốt cả tác phẩm, khi thì tách ra, khi thi hoà nhập với con người, trở thành biểu tượng của con người. Và, Tnú – nhân vật chính của tác phẩm – là một cây xà nu trẻ khỏe, hiên ngang, kiên cường, bất khuất, bất diệt trong đại ngàn xà nu của mảnh đất Tây Nguyên. Tnú mồ côi cha mẹ từ nhỏ, anh lớn lên trong vòng tay yêu thương của dân làng và trải qua nhiều mất mát đau thương. Đó là một cuộc đời đầy bi tráng, một số phận bất hạnh nhưng cũng là một tâm hồn trong sáng, tốt đẹp, giàu tình cảm yêu thương. Đặc biệt, tình cảm của anh dành cho dân làng, cho mảnh đất quê hương, cho vợ con mình thật dạt dào và tha thiết. Sống từ nhỏ trong vòng tay của dân làng, Tnú đã gắn bó với mọi người như gia đình ruột thịt, ta bắt gặp trên đôi môi Tnú sự bồi hồi, mừng rỡ khi anh trở về làng, gọi tên, nhận mặt, thăm hỏi từng người. Và đặc biệt là đối với già làng Mết, ba năm xa cách, Tnú rất đỗi sung sướng nhận thấy ông cụ vẫn “quắc thướt như xưa... ngực căng như một cây xà nu lớn.” Tình yêu quê hương đã chan hoà trong tình thương mến những con người của quê hương, tình làng nghĩa xóm trong tâm hồn Tnú mặn mà, sâu nặng. Tnú yêu con người, yêu từng cánh rừng, con suối quê hương. Anh lặng ngắm hồi lâu cánh rừng xà nu trong nắng, thấy hết sự huỷ diệt của bom đạn kẻ thù, thấy hết sức sống mãnh liệt của xà nu. Khi chia tay, Tnú bịn rịn, bâng khuâng giã từ cánh rừng như giã từ một người ruột thịt. Và ta hiểu rằng rừng cây mảnh đất quê hương gắn bó với bao kỉ niệm êm đềm, dữ dội, dù hạnh phúc hay đau thương thì đó vẫn là một nỗi nhớ niềm thương trong lòng Tnú. Tình cảm Tnú thật sự làm ta cảm động, đặc biệt là tình cảm anh dành cho vợ con mình. Anh thương con bằng tình thương của một người cha hiền hậu, quan tâm chăm sóc: Tnú đã xé đôi tấm dồ của mình làm tấm áo choàng ủ ấm cho con. Rồi khi vợ con mình bị bọn ác ôn đánh đập, anh liều mình lao vào giữa đám dã thú để che chở vợ con. Và bi kịch lớn nhất của đời Tnú, Tnú không cứu sống được vợ con mình, bàn tay Tnú bị đốt đến thương tật suốt đời. Nhưng bàn tay ấy có đáng là bao với nỗi đau mất vợ và con – một nỗi đau tinh thần quá lớn. Vậy mà Tnú không gục ngã, Tnú đứng lên, hiên ngang như cây xà nu trong mưa bom bão đạn. Tnú cũng bình thường, ít nói như mọi người khác trong dân làng Xô Man này, nhưng bên trong cái thầm lặng đó, là một trái tim luôn dạt dào, ấm áp tình cảm yêu thương. Tnú còn là hiện thân của một người chiến sĩ thời đại sớm giác ngộ Cách Mạng, yêu nước và tuyệt đối trung thành với Cách Mạng. Bản lĩnh Cách Mạng đã hun đúc trong con người anh từ nhỏ, đó là một tuổi thơ anh hùng, cùng Mai xung phong vào rừng nuôi cán bộ. Bản tính Tnú gan lì, nhưng đã biết nghe lời anh Quyết, tin yêu anh bằng tình cảm chân thành trong sáng. Và tình cảm Cách Mạng ấy đã dược thử thách qua biết bao khốn khó, gian lao, bao đau khổ, hi sinh và mất mát. Trong bi kịch lớn nhất đời mình, khi vợ và con trai đều đã ch
File đính kèm:
- trich doan sach van cua lovebookvn.pdf