Một số phương pháp dạy học nhằm nâng cao hiệu quả môn ngữ văn 6

doc15 trang | Chia sẻ: haohao | Lượt xem: 2274 | Lượt tải: 4download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Một số phương pháp dạy học nhằm nâng cao hiệu quả môn ngữ văn 6, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MỘT SỐ PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ MÔN NGỮ VĂN 6
I. ĐẶT VẤN ĐỀ
Để đạt được mục tiêu, nhiệm vụ giáo dục trong nhà trường THCS đáp ứng yêu cầu cấp học. Vai trò của người thầy trong việc giảng dạy là vô cùng quan trọng, quyết định cho việc tiếp thu nắm vững kiến thức đến từng học sinh, người thầy phải có phương pháp dạy học đúng dắn, phù hợp với từng phân môn, từng bài, từng đối tượng học sinh để đạt được kết quả tốt nhất trong việc dạy và học của thầy và trò.
Ngày nay, nước ta đã và đang phát triển theo hướng công nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước mà công nghệ thông tin được đặt lên hàng đầu. Vì vậy, yêu cầu cần phát triển nguồn nhân lực trong cơ chế thị trường và hội nhập quốc tế là vấn đề cần thiết. Do đó vấn đề dạy học theo hướng hiện đại đang đòi hỏi người dạy học và người học phải tìm tòi sáng tạo để chiếm lĩnh những tri thức để đáp ứng những nhu cầu phát triển xã hội. Vì vậy, đổi mới phương pháp dạy học theo định hướng tích cực hóa được đặt ra do yêu cầu đổi mới giáo dục, nhằm đáp ứng nhu cầu phát triển nhân lực cho đất nước trong giai đoạn hiện nay là rất cần thiết.
 Đối với việc giảng dạy môn Ngữ văn cần căn cứ vào đặc trưng vào sự vận dụng các phương pháp dạy học của từng phân môn: Văn, Tiếng Việt, Tập làm văn. Chương trình và sách giáo khoa Ngữ văn tuy được xây dựng theo nguyên tắc tích hợp nhưng không phủ nhận đặc trưng riêng của từng phân môn trong quá trình giảng dạy. 
Nhưng muốn đạt điều đó, người giáo viên phải có phương pháp vững vàng, có tri thức khoa học sáng tạo, lòng nhiệt tình say mê nghề nghiệp. Để thực hiện tốt việc giảng dạy môn Ngữ văn 6 người giáo viên phải lựa chọn phương pháp phù hợp với đặc điểm từng lớp nhằm phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động, sáng tạo của học sinh, bồi dưỡng phương pháp tự học, rèn luyện kĩ năng vận dụng kiến thức vào thực tiễn, tác động vào tình cảm đem lại hứng thú học tập cho học sinh. Từ đó chất lượng học tập của học sinh ngày được nâng cao.
Nhìn lại thực tế chất lượng học sinh chưa đồng đều phần lớn do các em học môn ngữ văn cón yếu kém nhiều.
Trước thực trạng như vậy, là người giáo viên giảng dạy cho học sinh.Tôi suy nghĩ và tìm ra một số biện pháp nhằm nâng cao chất lượng học sinh, là việc làm cần thiết và cấp bách để góp phần nâng cao chất lượng bộ môn. Đây làlí do tôi chọn đề tài “ Một số phương pháp dạy học nhằm nâng cao hiệu quả môn Ngữ Văn 6”
II. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
1. Cơ sở lý luận của vấn đề
Tinh thần cơ bản của đổi mới PPDH môn Ngữ văn cũng như các môn học
 khác trong nhà trường phổ thông hiện nay là tích cực hoá hoạt động học tập của học sinh và hoạt động dạy học của giáo viên. Đổi mới phương pháp dạy học theo định hướng tích cực hoá được dặt ra do yêu cầu đổi mới giáo dục phổ thông, yêu cầu phát triển nhân lực trong cơ chế thị trường và hội nhập quốc tế, những năm đầu thế kỹ XXI . Cơ sở của tinh thần trên xuất phát từ những quan niệm dạy học hiện đại, đáng chú ý là quan niệm dạy học tích cực hoá hoạt động của học sinh ( Hãy lấy học sinh làm trung tâm trong quá trình dạy học ). Để đạt hiệu quả trong quá trình giảng dạy việc sử dựng đúng các phương pháp dạy học sẽ mang lại kết quả tốt trong việc tiếp thu kiến thức cho từng đối tượng học sinh.
2. Thực trạng vấn đề:
Xét thực trạng ở trường trung học cơ sở các em chưa có sự yêu thích môn Văn, các em vào lớp chưa tích cực học, về nhà không soạn bài. Thực tế trong một lớp học sự tiếp thu kiến thức của học sinh không đồng đều, có một số em giáo viên chỉ giảng hoặc gợi ý một lần là đã hiểu bài, phát hiện vấn đề nhạy bén, nhưng những em học sinh này lại chiếm tỷ lệ rất ít trong một lớp học, đa số các em còn rất thụ động, chưa dám bày tỏ ý kiến quan điểm của cá nhân, chưa tích cực thảo luận nhóm, làm việc nhóm cho có hình thức.
Một số em có khả năng tự học ở nhà rất kém, lười học không nghiên cứu đọc sách báo, tham khảo tài liệu ở nhà, không tích cực xây dựng bài, chưa tích cực suy nghĩ chủ động tham gia các hoạt động tập thể để tự khám phá và chiếm lĩnh kiến thức. Các em chưa dám đặt câu hỏi cho nhóm để cùng tranh luận cho bản thân, cho thầy, bạn, chưa biết tự đánh giá các ý kiến quan điểm và sản phẩm văn học của nhóm, bản thân… chưa tích cực sáng tạo trong thực hành vận dụng kiến thức, kỹ năng và tình huống có vấn đề đặt ra từ thực tiễn vào cuộc sống nên dẫn đến tình trạng học sinh học yếu môn Ngữ văn rất nhiều.
Qua khảo sát chất lượng đầu năm học 2011 – 2012, kết quả như sau:

Lớp 
TSHS
Giỏi
Khá
Trung bình
Yếu
Kém


TS
%
TS
%
TS
%
TS
%
TS
%
6A
42
2
4.7
9
21.4
21
50.0
8
19.2
2
4.7
6B
41
0
 0
6
14.7
23
56.1
9
21.9
3
7.3
Kết quả trên cho thấy các em học yếu kém rất nhiều. Là giáo viên đứng lớp trực tiếp giảng dạy môn Văn. Tôi tìm ra những giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả học tập.
2. Giải quyết vấn đề 
Bác Hồ đã từng nói “Hiền dữ đâu phải do tính sẵn, phần nhiều do giáo dục 
mà nên”. Con người sinh ra sống và học tập đều phải trải qua môi trường rèn
luyện bản thân, trau dồi đạo đức để trở thành con người có tri thức. Vì thế
á thông qua tác phẩm văn học, học sinh sẽ thấy được cái thiện bao giờ cũng thắng cái ác, giáo dục con người sống có tinh thần tương thân tương ái, thương yêu đồng loại, biết ơn tổ tiên ta có công dựng nước, giữ nước qua truyện truyền thuyết “ Con Rồng, cháu Tiên”, “Bánh chưng, bánh giầy”…biết ơn những người đã tạo những thành quả cho ta hưởng thụ, bước đầu hình thành trong các em hướng tới cái chân, thiện, mĩ cảm nhận sâu sắc nội dung tác phẩm văn học mà các em đã và đang học trong chương trình Ngữ Văn 6.
Để việc học môn Ngữ văn đạt kết quả, giáo viên cần chú trọng vận dụng có hiệu quả phương pháp dạy học đặc thù bộ môn.
Các phương pháp theo định hướng giao tiếp, phân tích ngôn ngữ, rèn luyện theo mẫu trong các giờ Tiếng Việt, Tập làm văn ; các phương pháp vấn đáp gợi tìm, phương pháp đọc sáng tạo, phương pháp dùng lời nói có nghệ thuật trong giờ học văn mà bản thân tôi đã áp dụng trong những năm qua.
Nhưng tôi chỉ nghiên cứu phương pháp dạy học đặc thù trong giờ học văn nhằm giúp các em đạt hiệu quả cao.
Đổi mới phương pháp dạy học là giáo viên cần biết thiết kế tổ chức, hướng dẫn học sinh học tập phát triển tư duy ngôn ngữ rèn kĩ năng nghe nói, đọc, viết năng lực bình giá tác phẩm văn học nhằm đạt yêu cầu bài học. Biết điều chỉnh học tập của học sinh, cung cấp theo thông tin mà học sinh không tìm tòi được thông qua hoạt động trên lớp, động viên, khuyến khích, cần tạo điều kiện cho học sinh được tham gia một cách tích cực, chủ động sáng tạo vào quá trình tiếp nhận giải mã sản sinh văn bản.
Giáo viên cần tăng cường sử dụng khai thác kiến thức từ việc sử dụng tranh ảnh sẵn có, tự làm biết tạo điều kiện cho học sinh được rèn luyện kĩ năng học tập tích cực, chủ động có sáng tạo. Hình thành thói quen vận dụng kiến thức đã học vào giải quyết các vấn đề thực tiễn, chú ý khai thác vốn kiến thức, kinh nghiệm, kĩ năng, nghe, nói, đọc, viết đã có; bồi dưỡng hứng thú, nhu cầu thực hành và thái độ tự tin trong học tập để phát triển tối đa vốn kiến thức, kĩ năng văn học của bản thân.
Giáo viên cần sử dụng linh hoạt hiệu quả các phương pháp dạy học và hình thức tổ chức dạy học sau cho phù hợp nội dung; đặc điểm của từng bài học, năng lực tiếp nhận của học sinh; đặc trưng của môn học, lớp học, các điều kiện dạy học cụ thể của trường, địa phương. Vấn đề là ở cách vận dụng các phương pháp đó một cách phù hợp, đúng lúc, đúng chỗ, nhằm phát huy tính tích cực, sáng tạo trong hoạt động học tập văn bản của tất cả các đối tượng học sinh, giỏi, khá, trung bình, yếu, kém.
Văn bản nói chung và văn bản văn học nói riêng là một kết cấu nghệ thuật tinh tế, có sự kết hợp giữa khách quan phản ánh và chủ quan biểu hiện của tác giả bằng ngôn ngữ và qua những ấn tượng, cảm giác mà ngôn ngữ mang đến, các văn bản có khả năng tái hiện một cách sinh động gợi cảm, cụ thể thực hiện khách quan. Học sinh có thể tái hiện rất sinh động về hình ảnh “Thạch Sanh” dũng cảm khỏe mạnh với những chiến công của chàng qua văn bản “Thạch Sanh”. Đọc và học văn không chỉ để biết những sự kiện, hiện tượng của cuộc sống mà còn để hiểu được ý tưởng sâu xa nằm ngoài ngôn ngữ (ngôn từ ) tác phẩm hoặc những tư tưởng tình cảm và sự đánh giá của nhà văn về hiện thực.
Ví dụ: Khi hướng dẫn học sinh truyện ngắn ngụ ngôn “ Ếch ngồi đáy giếng” giáo viên cần giúp học sinh hiểu được truyện ngụ ngôn mượn truyện loài vật, đồ vật, hoặc chính con người để nói bóng gió, kín đáo truyện con người, nhằm khuyên nhủ, răng dạy người ta bài học nào đó trong cuộc sống.Vậy học sinh bắt đầu tìm hiểu văn bản sẽ hình dung được truyện “ Ếch ngồi đáy giếng” mượn truyện loài vật để nêu lên bài học luân lý cho con người không được chủ quan, kiêu ngạo coi thường người khác, phê phán những kẻ hiểu biết cạn hẹp mà lại huênh hoang, khuyên nhủ, con người phải cố gắng mở rộng tầm hiểu biết của mình.
Như vậy đọc hiểu văn bản không chỉ hiểu được nội dung mà ngôn từ mang lại mà còn hiểu được những tư tưởng tình cảm những ngụ ý mà tác giả dân gian muốn gửi gắm qua tác phẩm văn học.
Các văn bản trong chương trình ngữ văn 6 đều được chọn lọc rất kĩ, và là những tác phẩm nghệ thuật tiêu biểu đặc sắc. Nó giúp học sinh nhận thức cuộc sống đem đến những bài học những suy tưởng, những cảm xúc thẫm mĩ cao đẹp, sâu lắng trong tâm hồn, tình cảm con người.những điều này là phụ thuộc vốn kiến thức cá nhân. Do vậy sự tiếp thu kiến thức của các em chưa trùng với dự kiến của giáo viên, dạy học văn giúp học sinh hiểu tác phẩm nhà văn thành tác phẩm của mình.
Có người đã từng nói nhà văn là người “ Khơi những nguồn chưa ai khơi và sáng tạo những gì chưa có” giáo viên tuy không sáng tác ra tác phẩm văn chương nhưng là người làm ra sự sống trong lòng học sinh nên cũng cần lắm một sự sáng tạo. Chúng ta thường quen với kiểu tư duy chấp nhận cái củ không thừa nhận cái mới một bài văn của các em dễ bị điểm kém nếu không trả bài đầy đủ theo những gì giáo viên giảng trên lớp. Một suy nghĩ xem là lệch khi nó nằm ngoài những gì giáo viên truyền đạt.
Chính vì thế đổi mới phương pháp dạy học còn có nghĩa là tôn trọng và đề cao những tìm tòi, khám phá, cảm thụ, phân tích văn bản tích cực của học sinh.
Ví dụ : Khi nêu bài học rút ra từ truyện “ Ông lão đánh cá và con cá vàng” giáo viên chỉ nêu phê phán những kẻ tham lam, bội bạc như mụ vợ của ông lão đánh cá, học sinh lại suy nghĩ ra những câu thành ngữ thường ứng dụng trong cuộc sống “tham thì thâm”, “được voi đòi tiên”. Còn hình tượng cá vàng tượng trưng cho lòng biết ơn, trả ơn cho người cứu giúp mình thì học sinh lại nghĩ ngay đến câu tục ngữ “ăn quả nhớ kẻ trồng cây”. Khi nêu bài học rút ra từ truyện “Chân, Tay, Tai, Mắt, Miệng”. Giáo viên đưa ra “các thành viên trong một cộng đồng muốn tồn tại phải đoàn kết,nương tựa vào nhau gắn bó với nhau để cùng tồn tại, do đó phải biết hợp tác với nhau và tôn trong công sức của nhau” nhưng học sinh lại nghĩ ra bài học “tham thì thâm” “hám lợi thì mất tình cảm” không sống ích kỹ nghĩ chính chắn khi hành động. Không nên “ ăn cây nào rào cây ấy” mặt khác học sinh còn nêu được:
“Một cây làm chẳng nên non
Ba cây chụm lại nên hòn núi cao”
Cuộc sống muốn tồn tại cần phải cần nương tựa vào nhau để giúp nhau cùng tiến bộ. Giáo viên nên tiếp thu và đánh gia,ù biểu dương những ý kiến này, giờ học sẽ đem lại những ấn tượng sâu sắc cho các em.
Vì vậy, giáo viên cần biết vận dụng các phương pháp dạy học đặc thù đối với từng phân môn, muốn tìm hiểu được một văn bản văn học không thể không đọc và đọc sáng tạo, nếu không đọc học sinh sẽ không khai thác được nội dung trong văn bản cũng như đặc điểm nghệ thuật của văn bản. Song vấn đề mà tôi muốn đề cập không phải là tên gọi phương pháp mà là phải biết vận dụng chúng như thế nào trong giờ học văn nhằm giúp học sinh học tập tích cực mang lại hiểu quả trong việc học ngữ văn.
Đối với giáo viên hướng dẫn học sinh đọc văn bản trước khi tìm hiểu nội dung và nghệ thuật là điều rất quan trọng.
2.1. Phương pháp đọc sáng tạo
a.Bản chất.
Đọc sáng tạo là một phương pháp vô cùng quan trọng đối với việc đọc- hiểu văn bản, đọc sáng tạo không phải chỉ đọc thật hay, ấn tượng, mà quan trọng là giáo viên hướng dẫn học sinh đọc có tình cảm giọng đọc, điệu bộ!…giúp học sinh nhập vai, tái tạo hình tượng nghệ thuật, để học sinh hiểu một cách chính xác nội dung văn bản, làm sau để học sinh vân dụng vào cuộc sống thực tiễn. Mức thấp là đọc – hiểu những chữ bề mặt từng dòng.(tìm nghĩa hiển ngôn) mức cao là biết đọc hiểu những thông tin ở “bề sâu” văn bản do mối quan hệ giữa các dòng, giữa lời văn với nhau.
Đọc sáng tạo giúp học sinh tìm ra lớp nghĩa hàm ngôn của văn bản nghệ thuật, đọc sáng tạo là phương pháp dạy đặc thù của phân môn văn được vận dụng trong quá trình tìm hiểu khám phá tác phẩm và cả sau khi giờ trên lớp đã kết thúc.
b. Quy trình thực hiện.
Ví dụ minh họa:Vận dụng phương pháp đọc – hiểu văn bản trong dạy học văn bản cổ tích “Em bé thông minh”
Tìm hiểu tiết 1.
- Bước 1: Giáo viên hướng dẫn học sinh đọc đối với một văn bản khi tìm hiểu giá trị nội dung cần thông qua đọc, giáo viên cần qui định rõ thời gian, thông qua đọc học sinh khai thác được ý nghĩa của truyện.
Vì vậy ngay từ bước đầu giáo viên cần phải nắm rõ bài này phải đọc như thế nào mới cảm thụ được thông qua đọc văn bản khơi gợi ở các em có sự hứng thú lôi cuốn vào tác phẩm 
Đối với truyện “ Em bé thông minh” giáo viên hướng dẫn học sinh đọc phân vai.
- Giọng của văn bản: Vui, hóm hỉnh.
- Giọng người dẫn truyện: Diễn cảm.
- Giọng của tên quan: Giọng của một kể trên đặc biệt ở câu khi qua cánh đồng hỏi thợ cày “-Này, lão kia! Trâu của lão cày một ngày được mấy đường?” Đọc ra giọng của một kẻ trên khi hỏi.
-Giọng của vua: nghiêm nghị ở câu “thằng bé kia, mày có việc gì? Sau lại đến đây mà khóc?” Thay đổi giọng khi nghe em bé trả lời thì lập tức hạ giọng, vui thích.
- Giọng em bé thông minh: Bình tĩnh, hóm hĩnh, tự tin.
- Giọng khi đáp lại bằng bài đồng dao: Đọc giọng như có nhịp, cho đúng như là bài hát có vần nhịp điệu, học sinh sẽ cảm nhận được hình ảnh em bé thông minh đối đáp sắc sảo, hồn nhiên, bình tĩnh, vừa vui đùa nhảy nhót vừa giải đố trước con mắt thán phục của mọi người.
Tang tình táng! Tính tình tang
Bắc con kiến càng, buộc chỉ ngang lưng
Bên thời lấy giấy mà bưng
Bên thời bôi mỡ, kiến mừng kiến sang
Tang tình tang….
- Khi học sinh đã nhập vai đọc văn bản thì các em đã một phần nào cảm thụ được nội dung và nghệ thuật 
-Bước 2: Hướng dẫn học sinh tìm hiểu nội dung, mục đích giao tiếp hóa thân vào tác giả nhân vật trong tác phẩm để học sinh hiểu tâm tư tình cảm, điều tác giả, nhân vật muốn đề cập qua văn bản.
Bước này đòi hòi học sinh ở nhà chuẩn bị kỹ những câu hỏi SGK cùng gợi ý của giáo viên. Đây là bước quan trọng giúp các em hiểu nội dung của văn bản
Giáo viên hướng dẫn học sinh phân tích
? Thử thách với nhân vật em bé thông minh là thử thách gì?
Học sinh: Các câu đố và các lần giải đố.
Giáo viên: Đây là hình thức ta thường gặp trong cổ tích.
Giáo viên: Hướng dẫn, gợi ý học sinh thảo luận nhóm hai câu hỏi sau, từng nhóm đại diện nhóm phát biểu, học sinh bổ sung, nhận xét, giáo viên chốt ý, thời gian thảo luận nhóm 3 phút.
? Em bé thử thách qua mấy lần? Nội dung câu đố và giải thích câu đố của em bé?
? Dùng câu đố để thử tài nhân vật trong truyện cổ tích có tác dung gì?
- Học sinh nhóm 1: Câu 1 trả lời nhóm khác nhận xét, bổ sung thử thách của em bé trải qua bốn lần.
Lần 1: Quan đố “trâu cày một ngày mấy đường”.
Giải đố là viên quan
Lần 2: Vua ra câu đố “ba con trâu đực nuôi làm sau làm sau đẻ thành 9 con trâu con”
- Giải để vua tự nói ra sự phi lý, vô lý điều mình đố.
- Lần 3: Câu đố của vua “một con chim sẽ nhỏ làm thành 3 mâm cỗ”
Giải: đố lại vua
Lần 4: Câu đố của xứ thần “xâu sợi chỉ mành qua ruột con ốc”
Giải: đáp lại bằng bài đông dao
Dựa vào kiến thức dân gian 
Nhóm 2 trả lời, nhận xét, bổ sung.
- Tạo ra thử thách để nhân vật bộc lộ tài năng phẩm chất.
- Tạo tình huống cốt truyện phát triển
-Gây hứng thú hồi hộp cho người nghe.
Đối với bài “ Em bé thông minh” ở tiết 1 giáo viên chỉ hướng dẫn khai thác nội dung như trên:
- Bước 3: Hướng dẫn học sinh thực hành vận dụng tạo lập một đoạn văn thể hiện những suy nghĩ của cá nhận về giá trị, tác giả của văn bản.
Giáo viên yêu cầu học sinh nêu suy nghĩ của cá nhân em về những lần giải đố của em bé? Rút ra bài học?
Để hiểu được câu hỏi này buộc các em phải suy nghĩ viết một đoạn khoảng 5 dòng nêu cảm nhận của các em nêu trước lớp, giáo viên nhận xét, khuyến khích, động viên.
Em bé thông minh lỗi lạc, trên đồng ruộng em đã đáp lại sắc sảo làm quan há hốc mồm, giữa sân rồng em lừa vua vào bẫy, tại công quán em làm vua phải phục hẳn, cuối cùng cả triều “lắc đầu bó tay” em ung dung giải cứu ngay cho cả dân tộc trước con mắt thán phục của mọi người. 
Từ đó học sinh sẽ thấy được sự thông minh của em bé không dựa kiến thức sách vỡ mà dựa vào kiến thức đời sống, và có thái độ học tập đúng đắn để có kiến thức vận dụng vào cuộc sống, học sinh sẽ thấy được “Học đi đôi với hành” là quan trọng .
Các em muốn nắm nội dung bài học để kể lại câu truyện một cách đầy đủ thì phải nắm vững ý chính.Vậy đối với bài này các em cần nắm vững nội dung câu đố,cách giải đố để làm văn tự sự.
2.2. Phương pháp dùng lời nói có nghệ thuật( diễn giảng, bình giảng có thông báo…)
Cơ sở của phương pháp dùng lời có nghệ thuật là dựa trên quá trình tri giác, ghi nhớ, tái hiện thông tin từ giáo viên.
a. Bản chất.
Phương pháp dùng lời nói có nghệ thuật là phương pháp mà người nói hoàn toàn chủ động trong việc lựa chọn sử dụng các hình thức ngôn ngữ và phi ngôn ngữ để chuyển tải những thông tin đã chuẩn bị sẵn, những suy nghĩ, cảm xúc, hiểu biết của cá nhân mình tới người nghe, qua cung cấp kiến thức, giải thích những mối liên hệ nhân – quả, khám phá và sự giảng giải những khái niệm chung, qui luật, qua trình bày bằng phương tiện trực quan như bản đồ, tranh ảnh, hoặc đọc, bình bài thơ, đoạn văn…Người nghe sẽ tiếp nhận hệ thống thông tin đó từ người nói qua nghe, nhìn, ghi nhớ và tái hiện thông tin tùy theo yêu cầu của dạy học. 
b. Qui trình thực hiện:
Ví dụ: vận dụng phương pháp dùng lời nói có nghệ thuật cho bài “ Thầy bói xem voi” 
Bước 1: Chuẩn bị nội dung thông tin, phương tiện dạy học hỗ trợ.
Đối với phương pháp dùng lời nói có nghệ thuật đối với bài “ Thầy bói xem voi”. Mặc dù là phương pháp dạy học truyền thống nhưng khi áp dụng phương pháp dạy học này GV có thể cung cấp cho học sinh những tri thức kĩ năng với lời bình giảng gọn gàng, ngắn gọn, gợi cảm, thuyết phục mà bản thân học sinh còn lúng túng chưa cảm thụ thấu đáo, cần chuyển quá trình thuyết giảng của GV kết hợp trao đổi, đàm thoại giữa GV với học sinh để phát huy tính tích cực của học sinh.
Ví dụ đối với bước 1: Giáo viên cần chuẩn bị phóng to bức tranh sách giáo khoa, chuẩn bị kĩ nội dung bài học.
Bước 2: Giới thiệu bài một cách hấp dẫn gây sự chú ý cho học sinh, gây hứng thú.
Trong cuộc sống ta thường nghe “ Thầy bói nói mò” , “ thầy bói nói dựa!” vậy cả 5 thầy bói xem voi phản ánh về con voi có chính xác không? Truyện nhằm khuyên nhủ ta điều gì ta tìm hiểu truyện “ Thầy bói xem voi”.
Bước 3: Hướng dẫn gợi ý học sinh tìm hiểu nội dung truyện.
Hỏi: Kể tên nhân vật trong truyện ?
Học sinh: Năm thầy bói mù.
Hỏi: Các thầy xem voi bằng cách nào?
Học sinh: Dùng tay sờ vào voi.
Giáo viên yêu cầu học sinh quan sát bức tranh trong sách giáo khoa và nêu ba câu hỏi để học sinh thảo luận nhóm 3 phút, giáo viên hoàn toàn chủ động gọi ý cho học sinh làm việc không nên truyền thụ một chiều.
Câu 1: Hỏi: thầy bói dùng tay sờ voi vậy các thầy miêu tả con voi như thế nào? 
Câu 2: Tác giả dùng biện pháp nghệ thuật gì, tác dụng ra sao?
Câu 3: Thái độ các thầy khi xem?
Học sinh sẽ quan sát và suy nghĩ trả lời qua bức tranh.
Đây là bức tranh mô tả thầy sờ tai, sờ chân còn ba ông đã sờ xong đang tranh cãi. Các thầy tranh cải như sau.
Nhóm 1: câu 1 bổ sung, nhận xét, chốt ý:
Sờ vòi nói :“ con voi sun sun như con đỉa”.
 Sờ ngà nói: “ con voi nó trần trẩn như đòn càn”
 Sờ tai nói :“ bè bè như quạt thóc”
 Sờ chân nói: “ sừng sững như cột đình”.
Sờ đuôi nói :“ tun tủn như chổi sể cùn”
Học sinh bổ sung qua bức tranh cho thấy kết qua các thầy ai cũng cho mình đúng, ba thầy đang cải, hai thầy còn sờ voi, nhưng năm thầy ba sẽ tranh cải không ai chịu lắng nghe ý kiến của ai nên đánh nhau toạc đầu.
Nhóm 2: nghệ thuật miêu tả, so sánh.
Nhóm 3: câu 3 Cả năm thầy đều cho mình là đúng, phủ nhận ý kiến người khác. Cho thấy thái độ chủ quan sai lầm .
Giáo Viên khẳng định bằng lời miêu tả và cách so sánh tuyệt đối tương đồng sự so sánh.
Hỏi : sai lầm của họ là ở chổ nào? 
Học sinh: mỗi thầy chỉ sờ một bộ phận mà phán toàn bộ con voi.
? : Người như thế nào gọi là thầy bói?
Học sinh: Đọc chú thích 1
? : Truyện có tính chất gì?
Học sinh: chế giễu thầy bói và nghề bói toán.
Giáo viên giúp học sinh nhận ra một bài học sờ vào voi mà không nói đúng về voi thì làm sao có thể nói đúng về số phận con người.
Rút ra bài học cho bản thân học sinh: không mê tín “ Bói ra ma quét nhà ra rác”, “Hòn đất mà biết nói năng 
Thì thầy địa lí hàm răng chẳng còn”.
Bước 4: Tóm tắt toàn bộ bội dung thông tin 
? : Truyện “ Thầy bói xem voi” cho ta bài học gì?
Muốn hiểu biết sự vật, sự việc phải xem xét chúng một cách toàn diện,rút ra được câu thành ngữ”Thầy bói xem voi”.
2.3. Phương pháp vấn đáp gợi tìm:
Là phương pháp hình thành trên cơ sở quá trình tương tác giữa giáo viên và học sinh thông qua việc giáo viên và học sinh đặt ra những câu hỏi và tìm ra câu trả lời tương ứng về một chủ đe

File đính kèm:

  • docskkn ngu van 6 dat giai A cap tinh 2012.doc
Đề thi liên quan