Nâng cao chất lượng huy động vốn từ dân cư tại Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam Nam Chi nhánh Hà Nội

doc99 trang | Chia sẻ: dethi | Lượt xem: 1462 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Nâng cao chất lượng huy động vốn từ dân cư tại Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam Nam Chi nhánh Hà Nội, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỜI MỞ ĐẦU

Tính cấp thiết của đề tài:
Trong xu hướng hội nhập kinh tế quốc tế, các ngân hàng thương mại đang ngày càng mở rộng hoạt động kinh doanh thông qua việc cung cấp các sản phẩm, dịch vụ ngân hàng đa dạng tới các đối tượng khách hàng nhằm huy động được nguồn vốn tối đa cho Ngân hàng mình. Tuy nhiên, trong giai đoạn nền kinh tế khó khăn, lạm phát gia tăng không những trong nước mà trên toàn cầu, vấn đề huy động vốn đang là bài toán khó đối với hệ thống ngân hàng. Vậy làm thế nào để huy động được nguồn vốn hiệu quả hay làm thế nào để tìm kiếm được nguồn vốn với chi phí thấp, đáp ứng yêu cầu của các dịch vụ tài chính, đem lại hiệu quả kinh doanh tối đa cho các ngân hàng? Là một ngân hàng lâu năm, với nhiều đóng góp cho nền kinh tế thủ đô, cũng như nên kinh tế đất nước, Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Hà Nội đã đạt được nhiều thành tựu trong công tác huy động vốn đó là: Cung ứng lượng vốn đáng kể cho công cuộc đổi mới đất nước, góp phần thực hiện chính sách tiền tệ, ổn định giá cả, lãi suất và kiềm chế lạm phát, v.v…
Tuy nhiên, để tạo được bước chuyển, mà cụ thể là đáp ứng cho nhu cầu vốn đối với các thành phần kinh tế trên địa bàn thành phố Hà Nội ngày càng tăng cao thì công tác huy động vốn của Chi nhánh Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Hà Nội đang đứng trước những thách thức mới, đòi hỏi Chi nhánh phải thực sự quan tâm, chú ý nhằm nâng cao hiệu quả công tác huy động vốn trong nền kinh tế, đặc biệt la huy động được nguồn vốn rỗi từ dân cư. 
Trên cơ sở lý luận được học tại trường và kinh nghiệm thực tiễn thu được trong quá trình công tác tại Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Hà Nội, em chọn đề tài nghiên cứu : “Nâng cao chất lượng huy động vốn từ dân cư tại Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam Nam Chi nhánh Hà Nội” 
Mục đích nghiên cứu:
Mục đích của việc nghiên cứu đề tài là để làm rõ vấn đề về chất lượng huy động vốn từ dân cư của ngân hàng thương mại. Trên cơ sở đánh giá thực trạng chất lượng huy động vốn từ dân cư của Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam chi nhánh Hà Nội để thấy được kết quả đạt được và những hạn chế còn tồn tại để có giải pháp phù hợp nhằm nâng cao chất lượng huy động vốn từ dân cư tại Chi nhánh. 
Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu: Huy động vốn từ dân cư của ngân hàng thương mại
Phạm vi nghiên cứu: Nghiên cứu chất lượng huy động vốn từ dân cư tại Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Hà Nội.
Thời gian nghiên cứu: nghiên cứu tình hình huy động vốn dân cư trong vòng từ năm 2006 đến năm 2008 và chiến lược đến năm 2010
Phương pháp nghiên cứu:
Sử dụng phương pháp luận duy vật biện chứng, duy vật lịch sử để giải quyết mối quan hệ giữa lý luận và thực tiễn trong quá trình huy động vốn của NHTM
Xuất phát từ cơ sở lý luận nghiệp vụ huy động vốn của NHTM trong nền kinh tế thị trường kết hợp với thực tế hiện tại và sự tham khảo vận dụng kinh nghiệm của một số nước tiên tiến trên thế giới để đưa ra giải pháp nhằm nâng cao chất lượng huy động nguồn vốn từ dân cư tại Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Hà Nội. 
Đóng góp của luận văn: 
Hệ thống những vấn đề lý luận cơ bản về chất lượng huy động vốn từ dân cư của NHTM, phân tích các nhân tố ảnh hưởng
Đánh giá thực trạng, phân tích các nguyên nhân ảnh hưởng đến chất lượng huy động vốn từ dân cư còn chưa cao của Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Hà Nội, từ đó nêu lên một số giải pháp và kiến nghị cho vấn đề nghiên cứu.
Kết cấu của luận văn:
Ngoài phần mở đầu, kết luận, hệ thống ngôn từ viết tắt và danh mục các tài liệu tham khảo, các bảng biểu, sơ đồ, luận văn được kết cấu thành 3 chương như sau:
Chương 1: Những vấn đề cơ bản về chất lượng huy động vốn từ dân cư của ngân hàng thương mại
Chương 2: Thực trạng chất lượng huy động vốn từ dân cư tại Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam chi nhánh Hà Nội 
Chương 3: Giải pháp nhằm nâng cao chất lượng huy động vốn từ dân cư tại Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam chi nhánh Hà Nội.


CHƯƠNG 1
NHỮNG VẪN ĐỀ CƠ BẢN VỀ CHẤT LƯỢNG HUY ĐỘNG VỐN TỪ DÂN CƯ CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI

1.1.Huy động vốn từ dân cư của Ngân hàng thương mại
Khái quát về NHTM
Khái niệm về NHTM
 	Để đưa ra mộ định nghĩa về Ngân hàng thương mại người ta thường phải dựa vào tính chất và mục đích hoạt động của nó trên thị trường tài chính. Theo luật Ngân hàng Pháp năm 1941 định nghĩa: ”Được coi là Ngân hàng là những xí nghiệp hay cơ sở nào hành nghề thường xuyên nhận của công chúng dưới hình thức ký thác hay hình thức khác số tiền mà họ dùng cho chính họ vào các nghiệp vụ, chiết khấu hay tài chính”.
Ở nước ta trong bước chuyển đổi sang kinh tế thị trường có sự quản lý của nhà nước, “Thực hiện nhất quán kinh tế nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa, mọi người được tự do kinh doanh theo pháp luật, được bảo hộ quyền sở hữu và thu nhập hợp pháp, các hình thức sở hữu có thể hỗn hợp, đan xen với nhau hình thành các tổ chức kinh doanh đa dạng, các doanh nghiệp không phân biệt quan hệ sở hữu đều tự chủ kinh doanh, hợp tác và cạnh tranh với nhau, bình đẳng trước pháp luật”. Theo hướng đó nền kinh tế hàng hoá phát triển tất yếu sẽ tạo những tiền đề cần thiết cho những hoạt động của ngành Ngân hàng nói chung và sự ra đời của nhiều loại hình Ngân hàng và các tổ chức tín dụng khác. Cho nên để tăng cường quản lý, định hướng hoạt động cho các Ngân hàng và các tổ chức tín dụng khác, tạo thuận lợi cho sự phát triển của nền kinh tế đồng thời bảo vệ lợi ích hợp pháp của các tổ chức và cá nhân, pháp lệnh Ngân hàng, Hợp Tác Xã, Tín dụng và Công ty Tài chính đã xác định” Ngân hàng là tổ chức kinh doanh tiền tệ mà hoạt động chủ yếu và thường xuyên là nhận tiền gửi của khách hàng với trách nhiệm hoàn trả và sử dụng số tiền đó để cho vay, thực hiện các nghiệp vụ chiết khấu và làm phương tiện thanh toán”.
1.1.1.2. Chức năng của ngân hàng thương mại
Một là: Chức năng là trung gian tín dụng.
Trong nền kinh tế thị trường các giao dịch kinh tế diễn ra rất sôi động đã tạo ra những khoản thu nhập, chi tiêu và tích luỹ bằng tiền của các tầng lớp trong xã hội. Quá trình đó làm hình thành nên những người có tiền tích luỹ có khả năng cung cấp tín dụng và những người có nhu cầu tín dụng để đáp ứng cho nhu cầu đầu tư phát triển. Nhưng làm thế nào để họ tìm gặp được nhau và làm sao có thể cùng thoả mãn những nhu cầu vốn đa dạng và to lớn trong khi các nguồn tiền tiết kiệm đang nằm phân tán trong xã hội mà mỗi khoản tiết kiệm lại theo đuổi một mục đích riêng.
Nhờ có thị trường tài chính và cơ chế chuyển giao vốn năng động của thi trường tài chính mà trong đó hệ thống NHTM giữ vai trò chủ đạo, NHTM hoạt động như một chiếc cầu nối giữa khả năng cung ứng vốn và nhu cầu về vốn tiền tệ trong xã hội. Là trung gian tín dụng, Ngân hàng đóng vai trò là người môi giới giữa một bên là người có tiền cho vay và một bên là những người có nhu cầu chi tiêu cần đi vay vốn. Thông qua cơ chế thị trường, bằng những biện pháp, chính sách và áp dụng những phương pháp kỹ thuật theo hướng hiện đại Ngân hàng có khả năng thu hút hầu hết những nguồn tiền tệ nhàn rỗi trong xã hội để phân bổ vốn cho nhu cầu sản xuất kinh doanh. Như vậy có nghĩa là Ngân hàng đã biến những đồng tiền tạm thời nhàn rỗi thành những đồng tiền hoạt động, biến những đồng tiền tệ nằm phân tán thành nguồn tiền tệ tập trung phục vụ cho nhu cầu sản xuất kinh doanh, qua dó phát triển hoạt động kinh doanh của Ngân hàng.
Hai là: Chức năng làm trung gian thanh toán
Trong đời sống hàng ngày diễn ra hàng tỷ lượt giao dịch, thanh toán bằng tiền mặt. Nếu như mọi khoản thanh toán đều thanh toán bằng tiền mặt trao tay thì sẽ kéo theo hàng loạt các công việc phức tạp và tốn kém mà nhiều khi còn gặp rủi ro không lường trước được. Khi NHTM ra đời và phát triển, trong quá trình làm trung gian tín dụng Ngân hàng đã thu hút được hầu hết các nhà kinh doanh có quan hệ buôn bán với nhau mở tài khoản tại Ngân hàng tạo cơ sở cho các Ngân hàng đứng ra làm trung gian thanh toán theo lệnh của chủ tài khoản bằng cách trích số dư tiền gửi trên tài khoản của người mua chuyển sang tài khoản của người bán, tiến hành các nghiệp vụ này Ngân hàng trở thành là người thủ quỹ và là bộ máy kế toán đáng tin cậy của các nhà kinh doanh trong việc làm trung gian nhận và trả tiền theo yêu cầu của họ, kế toán và kết toán tài khoản cho họ. Do đó, quá trình thực hiện chức năng này hệ thống NHTM đã góp phần quan trọng làm giảm bớt khối lượng lưu thông tiền mặt, tiết kiệm chi phí lưu thông thuần tuý, giúp cho việc thanh toán tiền hàng hoá dịch vụ được thuận lợi, nhanh chóng, an toàn. Đối với Ngân hàng thực hiện chức năng này tạo cho Ngân hàng có thể duy trì và nâng cao khả năng thanh toán, quản lý được tình hình thu chi của các đơn vị qua đó có các quyết định kịp thời nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng vốn và an toàn tài sản cho khách hàng và Ngân hàng.
Ba là: Chức năng tạo phương tiện thanh toán
Quá trình tạo tiền của NHTM bắt nguồn từ quá trình phát triển hoạt động tín dụng gắn liền với việc mở rộng thanh toán qua Ngân hàng. Qua việc thực hiện hai chức năng trên Ngân hàng đã thu hút được một lượng khách hàng và số lượng tiền gửi khá lớn tại Ngân hàng, bằng cách dùng tiền gửi của người này để cho người khác vay và người này lại tạo nên tiền gửi của người khác nằm trong cùng hệ thống Ngân hàng. Quá trình đó NHTM tự tạo được khối lượng tiền gửi tăng thêm nhiều lần từ số tiền gửi đầu tiên (Tiền gửi sử dụng Sec), khối lượng tiền đó sẵn sàng cung ứng cho nhu cầu thanh toán vì người ta có thể viết Sec để rút tiền từ tài khoản tiền gửi của họ, Sec được sử dụng làm phương tiện thanh toán thay thế cho tiền trong việc mua bán hàng hoá và chi trả dịch vụ khác.
1.1.1.3 Vai trò của ngân hàng thương mại với nền kinh tế
Cùng với sự phát triển của nhiều ngành nghề khác, từ khi ra đời và phát triển NHTM đã đóng góp vai trò rất quan trọng trong việc xây dựng và phát triển nền kinh tế thế giới. Ở tất cả các nước, hệ thống NHTM đã không ngừng phát triển, đóng vai trò tập trung những khoản tiền nhàn rỗi trong nền kinh tế để cung ứng vốn cho các nhà đầu tư cần vốn- Đó chính là quá trình huy động vốn và sử dụng vốn của các NHTM. Bằng hoạt động của mình NHTM đã đóng góp một lượng vốn đáng kể và hàng loạt các dịch vụ Ngân hàng khác cho nền kinh tế. Vậy vai trò của NHTM đối với nền kinh tế cụ thể như:
Một là: Ngân hàng thương mại là nơi cung cấp tín dụng cho nền kinh tế, là cầu nối giữa tiết kiệm và đầu tư.
Là một trung gian tín dụng NHTM đã tích tụ và tập trung được một khối lượng lớn tiền tạm thời nhà rỗi thông qua nghiệp vụ huy động vốn và thực hiện các dịch vụ Ngân hàng cho khách hàng. Từ nguồn tiền đó tiến hành cấp phát tín dụng cho các thành phần kinh tế, những tổ chức và cá nhân cần vốn để phục vụ cho nhu cầu chi tiêu của mình. Tức là Ngân hàng đóng vai trò là người môi giới giữa một bên là những người có tiền nhàn rỗi có thể cho vay và một bên là những người cần vay vốn. Thực hiện chức năng này tức là Ngân hàng đã trở thành người khơi thông và kích hoạt các nguồn vốn, làm cho nguồn tiền tệ luôn hoạt động và sinh lời. Những hoạt động đó của NHTM đã thực sự tác động điều hoà cung cầu tiền tệ, biến những đồng tiền nhàn rỗi thành những đồng tiền hoạt động có ích, tập trung vốn vào việc tài trợ cho các ngành kinh tế khác phát triển, tạo thêm việc làm cho người lao động và bằng những khoản tín dụng nhỏ thích hợp giúp người lao động có thêm điều kiện ổn đinh và cải thiện đời sống.
Hai là: Ngân hàng giúp cho các nhà kinh doanh trong việc nâng cao hiệu quả sử dụng vốn.
Ngân hàng tài trợ vốn cho các Doanh nghiệp trên cơ sở phải tuân thủ các điều kiện do Ngân hàng đặt ra. Trong đó các khoản tín dụng mà Doanh nghiệp nhận được đều phải trả lãi và khi hết thời gian sử dụng phải hoàn trả gốc. Vì vậy để đảm bảo an toàn tài sản cho Ngân hàng và nâng cao hiệu quả sử dụng vốn cho Doanh nghiệp thì trước khi cho vay, Ngân hàng cần phải thẩm định phương án sử dụng vốn vay của Doanh nghiệp, thẩm định tính khả thi của dự án, thẩm định các yếu tố liên quan đến Doanh nghiệp (Uy tín, trình độ nhân viên, tài sản đảm bảo…) một cách chính xác rõ ràng, chi tiết, qua đó cán bộ tín dụng giúp Doanh nghiệp xây dựng phương án sản xuất kinh doanh có hiệu quả. Sau khi cho Doanh nghiệp vay vốn, Ngân hàng vẫn tiếp tục tiến hành giám sát quá trình sử dụng vốn vay của Doanh nghiệp và thông qua hoạt động thanh toán hộ thì Ngân hàng có thể giúp Doanh nghiệp quản lý tốt hơn về vốn và sử dụng vốn.
Ba là: Hoạt động Ngân hàng có tác dụng điều tiết sự dịch chuyển của vốn đầu tư góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế và phát triển vùng.
Khi Chính phủ có sự ưu tiên về phát triển ngành nghề hoặc vùng kinh tế nào đó thì Chính phủ sẽ đưa ra những chính sách riêng cho từng vùng và thông qua hệ thống NHTM để tiến hành cung ứng vốn cho những vùng đó. Hoạt động tín dụng Ngân hàng ngày càng phát triển đã làm cho việc di chuyển vốn diễn ra một cách dễ dàng, tập trung duy trì lực lượng bình quân từ tất cả các ngành. Đồng thời với sự tác động của Ngân hàng vốn được dịch chuyển từ vùng thừa vốn sang vùng thiếu vốn đảm bảo cho sự phát triển đồng đều giữa các ngành, xoá dần sự khác biệt, thúc đẩy nền kinh tế phát triển ổn định.
Bốn là: Hoạt động của Ngân hàng góp phần chống lạm phát.
Với đặc điểm của NHTM là một tổ chức trung gian tài chính với các hoạt động chủ yếu là huy dộng vốn, cho vay và thực hiện chức năng trung gian thanh toán. Lượng tiền trong lưu thông được Ngân hàng kiểm soát. Thông qua các khoản mục của NHTM, NHTƯ sẽ xác định được lượng tiền mặt đang lưu thông trong nền kinh tế, từ đó để có các biện pháp kiểm soát nhằm đề phòng và hạn chế những ảnh hưởng xấu có thể xảy ra. Trường hợp nếu xảy ra lạm phát thì bằng các nghiệp vụ của mình, NHTƯ sẽ tiến hành điều chỉnh tăng tỷ lệ dự trữ bắt buộc, tăng lãi suất chiết khấu hoặc tái chiết khấu, tham gia vào thị trường mở để tác động tới NHTM qua đó làm thay đổi lượng tiền trong lưu thông.
Năm là: Ngân hàng tài trợ cho các hoạt động xuất nhập khẩu- thúc đẩy phát triển thương mại quốc tế.
Thương mại quốc tế ngày càng phát triển, cùng với xu thế khu vực hoá và toàn cầu hoá thì các mối quan hệ kinh tế quốc tế giữa các quốc gia đóng vai trò ngày càng quan trọng trong việc thúc đẩy sự phát triển kinh tế của mỗi quốc gia. Cùng hoà chung với xu thế đó NHTM cũng đóng vai trò rất quan trọng trong việc đưa nền kinh tế của quốc gia mình hội nhập vời nền kinh tế thế giới. Bằng các hoạt động của mình như tài trợ xuất nhập khẩu, thực hiện các hình thức thanh toán, bảo lãnh… đã góp phần thúc đẩy việc chu chuyển hàng hoá dịch vụ giữa các quốc gia với nhau một cách thuận lợi và nhanh chóng.
1.1.1.4. Các hoạt động cơ bản của Ngân hàng thương mại trong nền kinh tế
a.Nhận tiền gửi
Đây là hoạt động cơ bản của NHTM, Ngân hàng nhận được các khoản tiền gửi từ khách hàng dưới các hình thức tiền gửi không kỳ hạn, tiền gửi có kỳ hạn, tiền gửi tiết kiệm và các hình thức khác. Ngân hàng nhận tiền gửi của các cá nhân, của các tổ chức kinh tế và Ngân hàng phải hoàn trả gốc và lãi cho khách hàng khi đến hạn hoặc khi khách hàng có nhu cầu sử dụng là đến rút tiền ở Ngân hàng. Qua hoạt động này Ngân hàng đã thu hút một lượng lớn tiền tạm thời nhàn rỗi để phục vụ cho các hoạt động của mình như hoạt động cho vay và thông qua đó cung cấp phương tiện thanh toán cho nền kinh tế.
b. Hoạt động tài trợ của NHTM
Trên cơ sở lượng tiền gửi từ nền kinh tế mà Ngân hàng đã tiếp nhận và quản lý được sau khi trừ đi phần dự trữ cần thiết theo qui định, phần còn lại sẽ được Ngân hàng sử dụng để tài trợ cho các hoạt động của mình. Do tính đa dạng của khách hàng và nhu cầu phong phú về phương thức sử dụng tiền tài trợ của khách hàng nên Ngân hàng đã thiết lập và xây dựng các phương thức tài trợ khác nhau.
 * Tài trợ cho các hoạt động của chính phủ
Khả năng huy động và cho vay với khối lượng lớn của Ngân hàng đã trở thành trọng tâm chú ý của chính phủ. Do nhu cầu chi tiêu lớn của chính phủ và thường là cấp bách trong khi thu không đủ chi hoặc thu chưa đủ thì chính phủ các nước đều muốn tiếp cận với các khoản cho vay của Ngân hàng. Phương thức được sử dụng nhiều nhất là Ngân hàng thực hiện nghiệp vụ mua bán tín phiếu, trái phiếu hoặc làm đại lý phát hành các giấy tờ có giá cho Chính phủ, qua nghiệp vụ này một mặt vừa thực hiện nghĩa vụ với nhà nước mặt khác vừa đem lại thu nhập cho Ngân hàng.
* Tài trợ cho nền kinh tế
Để tiến hành hoạt động kinh doanh thì vấn đề sống còn là phải có nguồn lực tài chính đủ mạnh, trước hết là dể tiến hành hoạt động sản xuất kinh doanh mặt khác là để mở rộng qui mô và tham gia cạnh tranh để đứng vững trong nền kinh tế thị trường. Nguồn lực này ngoài nguồn vốn tự có của các Doanh nghiệp (thường chỉ chiếm tỷ trọng nhỏ), thì phần lớn các doanh nghiệp đều phải dựa và nguồn vốn tín dụng Ngân hàng. Tuỳ theo nhu cầu và loại hình kinh doanh mà Ngân hàng chấp nhận cấp tín dụng theo các phương thức khác nhau trên cơ sở thoả mãn các điều kiện vay vốn do Ngân hàng đưa ra. Khi thực hiện nghiệp vụ này thì nó đem lại lợi nhuận rất lớn cho Ngân hàng và đây là nguồn thu chủ yếu của Ngân hàng.
Cho vay: Là hình thức cấp tín dụng, theo đó Ngân hàng giao cho khách hàng một khoản tiền để sử dụng trong một khoảng thời gian và theo mục đích nhất dịnh trên nguyên tắc có hoàn trả cả gốc và lãi. Đây là phương thức phổ biến nhất trong hoạt động tài trợ của Ngân hàng đối với khách hàng.
Cho thuê tài chính: Là hoạt động tín dụng trung và dài hạn kéo dài trên cơ sở hợp đồng cho thuê tài sản giữa bên cho thuê là các tổ chức tín dụng và khách hàng đi thuê. Khi kết thúc thời hạn thuê, khách hàng có thể mua lại tài sản đó hoặc tiếp tục thuê tài sản đó theo các điều kiện đã thoả thuận trong hợp đồng thuê. Trong thời hạn cho thuê các bên không được đơn phương hủy bỏ hợp đồng. Hình thức này giúp người thuê có ngay tài sản có giá trị lớn để phục vụ cho sản xuất nhưng người thuê phải trả lãi suất thuê thường cao hơn các hình thức vay khác.
Góp vốn đầu tư: Là hình thức Ngân hàng cùng với một số đối tác cùng góp vốn để thực hiện các dự án sản xuất kinh doanh. Có thể là hình thức đầu tư trực tiếp hoặc đầu tư gián tiếp, và Ngân hàng được hưởng quyền lợi và nghĩa vụ như một cổ đông thường.
Mua nợ: Ngân hàng có thể tài trợ cho khách hàng thông qua việc mua lại các khoản nợ, hay chiết khấu các chứng từ có giá.
c. Mua bán ngoại tệ
Đây là hình thức Ngân hàng làm trung gian trong việc chuyển đổi các đồng tiền của các quốc gia với nhau theo nhu cầu của khách hàng dựa trên tỷ giá mua bán các đồng tiền đó với nhau. Qua hoạt động này Ngân hàng thu được lợi nhuận từ chênh lệch giữa tỷ giá mua và tỷ giá bán. Số lượng ngoại tệ mà Ngân hàng mua được có thể dùng để cho vay đối với các khách hàng có nhu cầu vay bằng ngoại tệ hoặc dùng để thanh toán trong các giao dịch bằng ngoại tệ.
d. Các dịch vụ của Ngân hàng
- Cung cấp tài khoản giao dịch và thực hiện thanh toán hộ.
Thông qua việc thu hút khách hàng (Cá nhân hoặc tổ chức) mở tài khoản giao dịch tại Ngân hàng, Ngân hàng sẽ quản lý tài khoản của khách hàng và tiến hành chi trả tiền hàng hóa dịch vụ cũng như thu hộ các khoản phải thu của chủ tài khoản theo lệnh của họ. Thực hiện nghiệp này một mặt Ngân hàng giúp khách hàng giảm bớt được chi phí trong quá trình thanh toán, mặt khác Ngân hàng tập trung được một lượng tiền lớn trong nền kinh tế để sử dụng cho các hoạt động của mình.
- Bảo quản vật có giá 
Đây là một dịch vụ mang lại thu nhập khá cao cho các Ngân hàng. Trên thế giới dịch vụ này rất phát triển. Nội dung của nghiệp vụ này là các Ngân hàng cho khách hàng thuê két của Ngân hàng để bảo quản tài sản của mình và thu phí từ hoạt động cho thuê đó.
- Dịch vụ bảo lãnh
Bảo lãnh Ngân hàng là cam kết bằng văn bản của các tổ chức tín dụng với bên có quyền về việc thực hiện nghĩa vụ tài chính thay cho khách hàng khi khách hàng không thực hiện đúng nghĩa vụ đã cam kết. Muốn vạy khách hàng phải có được sự đồng ý của Ngân hàng, nó phải tuân theo một qui trình bảo lãnh riêng. Khi Ngân hàng thực hiện nghĩa vụ thay cho khách hàng thì Ngân hàng được hưởng một khoản phí gọi là phí bảo lãnh, mức phí này tuỳ thuộc vào mức độ rủi ro của từng hợp đồng bảo lãnh.
- Cung cấp dịch vụ uỷ thác và tư vấn đầu tư
Do hoạt động trong lĩnh vực tài chính, Ngân hàng có rất nhiều chuyên gia về quản lý tài chính vì vậy có rất nhiều cá nhân và doanh nghiệp đã nhờ Ngân hàng quản lý tài sản và quản lý hoạt động tài chính hộ. Ngân hàng sẵn sàng tư vấn về đầu tư, về quản lý tài chính, về thành lập, mua bán và sáp nhập doanh nghiệp.
- Cung cấp dịch vụ môi giới đầu tư chứng khoán
Với trình độ của đội ngũ cán bộ công nhân viên và hệ thống cơ sở vật chất kỹ thuật, Ngân hàng đã cung cấp cho khách hàng các thông tin về chứng khoán và đầu tư chứng khoán như các danh mục đầu tư, quản lý tài khoản, mua bán hộ, bảo quản chứng khoán…
- Cung cấp dịch vụ đại lý
Nhiều Ngân hàng trong quá trình hoạt động không thể thiết lập chi nhánh hoặc văn phòng ở khắp mọi nơi, nhiều Ngân hàng (thường là các Ngân hàng lớn) cung cấp dịch vụ đại lý cho các Ngân hàng khác như thanh toán hộ, phát hành chứng chỉ tiền gửi, làm Ngân hàng đầu mối trong đồng tài trợ…
1.1.2. Huy động vốn từ dân cư của NHTM
1.1.2.1. Đặc điểm nguồn vốn huy động từ dân cư
Nguồn vốn huy động từ dân cư, đặc biệt là nguồn tiền gửi ngắn hạn, thường nhạy cảm với biến động về lãi suất, tỷ giá, thu nhập, chu kỳ chi tiêu và nhiều nhân tố khác. Lãi suất cao là một phần nhân tố kích thích người gửi tiền. Trong điều kiện có lạm phát cao, người gửi tiền thường quan tâm tới lãi suất thực, điều đó có nghĩa là lãi suất thực dương mới thực sự hấp dẫn các nguồn tiền tiết kiệm. Các yếu tố khác như địa điểm ngân hàng, mạng lưới chi nhánh và quầy giao dịch,tính chất thời vụ, các loại hình huy động đa dạng… đều ảnh hưởng đến qui mô và cấu trúc của nguồn tiền gửi từ dân cư. Vào dịp tết việc huy động vốn từ dân cư có chiều hướng giảm sút, đặc biệt trong điều kiện xu hướng sử dụng tiền mặt còn phổ biến. Tại thành phố, nơi tập trung nhiều tầng lớp dân cư có thu nhập cao hình thành lượng người gửi tiền lớn kéo theo lượng tiền gửi vào ngân hàng là lớn. Thu nhập gia tăng là điều kiện gia tăng quy mô và kỳ hạn của nguồn tiền. Nguồn vốn huy động từ dân cư thường có đặc điểm:
- Chiếm tỷ trọng cao, đóng vai trò quyết định trong hoạt động của NHTM(Thông thường nguồn này chiếm hơn 50% tổng nguồn vốn và là mục tiêu tăng trưởng hàng năm của các ngân hàng)
- Ổn định, phát triển với khả năng tiềm tàng trong thị trường lớn.
- Đa dạng, phong phú( loại không kỳ hạn, có kỳ hạn, …, bằng việt nam đồng, ngoại tệ, vàng,,….)
1.1.2.2.Nguyên tắc huy động vốn từ dân cư:
Huy động vốn nhàn rỗi từ dân cư là một trong những hoạt động quan trọng hàng đầu của ngân hàng thương mại. Ngân hàng huy động vốn từ dân cư để đáp ứng nhu cầu vay vốn cho nền kinh tế. Trên cơ sở đó, ngân hàng quy định mức lãi suất đầu ra phải cao hơn lãi suất đầu vào để thu lợi nhuận. Để đảm bảo chất lượng huy động vốn từ dân cư có hiệu quả, trong quá trình thực hiện, các ngân hàng phải tuân thủ các nguyên tắc sau:
Nguyên tắc 1: Việc huy động vốn phải căn cứ vào nhu cầu vay vốn của nền kinh tế quốc dân.
Ngân hàng với chức năng là cơ quan tập trung nguồn vốn từ dân cư phục vụ cho nhu cầu sản xuất, kinh doanh đòi hỏi ngân hàng phải luôn có biện pháp để tăng cường nguồn vốn đáp ứng nhu cầu ngày càng tăng của xã hội, mặt khác ngân hàng là một đơn vị hạch toán kinh doanh do vậy ngân hàng cũng phải huy động nguồn vốn từ dân cư sao cho không bị ứ đọng vốn tại ngân hàng. Muốn vậy, ngân hàng phải nắm được chính sách phát triển kinh tế của cả nước, của địa phương, của các đơn vị và dân cư. Từ đó đề ra chính sách và biện pháp huy động vốn từ dân cư theo các kỳ hạn hợp lý để đảm bảo sử dụng vốn có hiệu quả.
Nguyên tắc 2: Ngân hàng phải luôn đảm bảo tính thanh khoản trong hoạt động.
Việc đảm bảo khả năng thanh khoản hợp lý là một vấn đề không bao giờ kết thúc đối với hoạt động quản lý và nó luôn mang một ý nghĩa to lớn đối với khả năng sinh lời của ngân hàng. Hơn nữa, giải quyết các vấn đề thanh khoản luôn gắn với chi phí, bao gồm chi phí trả lãi vốn vay, chi phí giao dịch cho việc tìm kiếm vốn thanh khoản và cả chi phí cơ hội tồn tại dưới hình thức những khoản thu nhập trong tương lai sẽ bị bỏ qua khi bán đi những tài sản sinh lời để đáp ứng yêu cầu thanh khoản. Đối với những cầu thanh khoản ngắn hạn, chẳng hạn một chứng chỉ tiền gửi có giá trị lớn đến hạn và khách hàng sẽ rút vốn khỏi ngân hàng, trong trường hợp này, NH sẽ sử dụng những nguồn vốn tức thời như vay dự trữ từ NH khác để đối phó. Ngược lại, cầu thanh khoản dài hạn xuất phát từ những yếu tố mang tính thời vụ, chu kỳ, NH có thể sử dụng nhiều nguồn vốn để đáp ứng thanh khoản hơn so với những nhu cầu ngắn hạn như tăng cường quảng cáo cho dịch vụ nhận tiền gửi hay bán những tài sản có tính thanh khoản đã tích lũy

File đính kèm:

  • doc123(1).doc