Những bài thơ hay nhất trong phong trào Thơ Mới?
Bạn đang xem nội dung tài liệu Những bài thơ hay nhất trong phong trào Thơ Mới?, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Những bài thơ hay nhất trong phong trào Thơ Mới?--- Phanxipăng --- Một số bạn quan tâm đến phong trào Thơ Mới, đã đặt câu hỏi với tôi như vậy. Quả là câu hỏi cực kỳ... gay cấn! Cứ nhìn lại kinh nghiệm tiếp xúc của con người với thi ca, chắc chắn ta sẽ thấy ngay một điều rất ... không chắc chắn: bài thơ ấy có thể hay đối với tôi nhưng lắm khi đối với bạn lại "chẳng là cái đinh gì"; và ngay cả với tôi, bài thơ ấy có thể "hay ơi là hay" ngày hôm nay, song hôm qua và ngày mai thì ... chưa hẳn. Văn chương tự cổ vô bằng cứ. Các cụ xưa đã tổng kết thế mà!Cách đây đúng 65 năm, ngày 10-3-1932, trên tờ Phụ Nữ Tân Văn số 122, Phan Khôi đã tung "một lối thơ mới trình chánh giữa làng thơ" với bài "Tình già". Đó là thời điểm "cuộc cách mệnh về thi ca đã nhóm dậy", theo nhận định của nhà nghiên cứu Hoài Thanh. Phong trào Thơ Mới ra đời, trở thành "hiện tượng thơ ca lớn nhất thế kỷ" như đánh giá của nhà thơ Tế Hanh, đưa thơ ca Việt Nam từ thời kỳ cận đại bước vào thời kỳ hiện đại và còn in đậm dấu ấn ảnh hưởng trong thi mạch nước nhà trước ngưỡng cửa thế kỷ XXI.Trải qua nhiều bể dâu thời cục, có lúc có nơi, Thơ Mới được suy tôn hết lời hoặc bị chê bai ruồng rẫy - ngay cả với những người trong cuộc! Đến nay, Thơ Mới đang phục hồi những giá trị đích thực tự thân. Khảo về Thơ Mới, giáo sư Lê Đình Kỵ viết: "Thơ Mới đã đóng góp hàng trăm bài thơ hay, trong đó không ít bài thơ có thể xếp vào loại hay nhất của nền thơ ca dân tộc". Nhưng như tôi đã trình bày, xác định những bài thơ hay nhất trong phong trào Thơ Mới lại là vấn đề hết sức chủ quan, tùy căn tạng từng cá nhân trong từng thời khoảng cụ thể, nên khó tìm được tiếng nói chung lắm lắm!Năm 1992, nhân kỷ niệm 60 năm phong trào Thơ Mới ra đời, một "Ban liên lạc phong trào Thơ Mới" được thành lập, thoạt đầu gồm các thành viên: Huy Cận, Nguyễn Xuân Sanh, Tế Hanh, Anh Thơ, Hà Minh Đức. Cũng trong năm đó, 3 cuộc hội thảo về Thơ Mới được tổ chức tại Hà Nội và TP. Hồ Chí Minh; rồi năm kế tiếp, kỷ yếu Nhìn lại một cuộc cách mạng trong thi ca được NXB Giáo Dục ấn hành. Thực hiện kỷ yếu này, giáo sư Hà Minh Đức đã mời một số nhà thơ, nhà phê bình am hiểu và có phần đóng góp cho phong trào Thơ Mới chọn lựa khoảng mươi bài thơ mới hay nhất. Hầu hết người được mời đều cảm thấy khó khăn và kết quả cũng rất "mỗi người một vẻ". Xin giới thiệu danh mục lựa chọn ấy để quý bạn tham khảo: Hoài Thanh có một nhận định xác đáng về dòng thơ lãng mạn 1930-1945: “Tôi quyết rằng trong lịch sử thi ca Việt Nam chưa bao giờ có một thời đại phong phú như thời đại này. Chưa bao giờ người ta thấy xuất hiện cùng một lần một hồn thơ rộng mở như Thế Lữ, mơ màng như Lưu Trọng Lư, hùng tráng như Huy Thông, trong sáng như Nguyễn Nhược Pháp, ảo não như Huy Cận, quê mùa như Nguyễn Bính, kì dị như Chế Lan Viên... và tha thiết rạo rực băn khoăn như Xuân Diệu”.Xuân Diệu, Huy Cận, Hàn Mặc Tử là ba khuôn mặt lớn của dòng thơ lãng mạn thời kì này. Những giá trị tư tưởng và nghệ thuật của ba tác giả cũng tiêu biểu cho những cống hiến của dòng văn học lãng mạn trong nền văn học hiện đại.Thơ Xuân Diệu, Huy Cận, Hàn Mặc Tử trước hết thể hiện tình yêu thiên nhiên say đắm, nồng nàn. Bằng cảm hứng lãng mạn, các nhà thơ đó đã họa lên trong thơ mình những bức tranh thiên nhiên đầy màu sắc và đường nét độc đáo. Quê hương Việt Nam hiện lên trong thơ họ thật là mĩ lệ. Đây là vẻ đẹp của xứ Huế trong thơ Hàn Mặc Tử với vườn tược xanh tươi mơn mởn, với hình bóng cô gái Huế e ấp phía sau khóm trúc:“Sao anh không về chơi thôn Vĩ?Nhìn nắng hàng cau nắng mới lênVườn ai mướt quá xanh như ngọcLá trúc che ngang mặt chữ điền”(Đây thôn Vĩ Dạ)Xuân Diệu từ Bình Định ra Hà Nội mê say với mùa thu xứ Bắc. Hình ảnh thiên nhiên mùa thu đã diễn tả trong thơ Xuân Diệu nhuốm màu sắc tìnhcảm lãng mạn của thi nhân. Thiên nhiên trong thơ Xuân Diệu đẹp một cách tráng lệ nhưng buồn:“Rặng liễu đìu hiu đứng chịu tangTóc buồn buông xuống lệ ngàn hàngĐây mùa thu tới – mùa thu tớiVới áo mơ phai dệt lá vàng”“Tràng giang” của Huy Cận lại bắt nguồn từ cảm xúc trước cảnh sông nước Hồng Hà mênh mông. Thời sinh viên, chiều chiều Huy Cận thường tha thẩn trên bờ đê sông Hồng ngoạn cảnh, suy tư. Hình ảnh của thiên nhiên được ghi lại trong hồn thơ Huy Cận thật là đẹp, thật là xao động:“Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệpCon thuyền xuôi mái nước song song”Thiên nhiên trong “Tràng giang”còn chứa chất tâm sự của thi nhân. Huy Cận nói: “Tình yêu quê hương trong bài “Tràng giang” gợi lên và mở ra một tình yêu lớn lao hơn mỗi miền quê, mỗi cảnh vật. Tình yêu đó mang nỗi buồn sông núi, nỗi buồn về đất nước”. Tâm sự của thi nhân đọng lại ở mấy câu kết:“Lớp lớp mây cao đùn núi bạcChim nghiêng cánh nhỏ bóng chiều saLòng quê dợn dợn vời con nướcKhông khỏi hoàng hôn cũng nhớ nhà.”Câu thơ kết đã cách tân từ một câu thơ của Thôi Hiệu đời Đường “Yên ba giang thượng sử nhân sầu” (Trên sông khói sóng cho buồn lòng ai). Huy Cận có tâm sự là ông không chỉ nhớ nhà mà là ông cảm thấy cô đơn, đứng trên quê hương của mình mà nhớ quê hương mình, lạc loài ngay trên quê hương của mình. Rõ ràng là dưới những lớp sóng, lớp mây kia đã ấp ủ một tâm sự yêu nước thầm kín của thi nhân.Riêng thơ lãng mạn của Xuân Diệu có một niềm say mê ngoại giới, khác giới, một niềm khát khao giao cảm với đời, một lòng ham sống mãnh liệt:“Ta ôm bó cánh tay ta làm rắnLàm dây đa quấn quýt cả mình xuânKhông muốn đi mãi mãi ở vườn trầnChân hóa rễ để hút mùa dưới đất”Hay là:“Tôi muốn tắt nắng điCho màu đừng nhạt mấtTôi muốn buộc gió lạiCho hương đừng bay điCủa ong bướm này đây tuần tháng mậtNày đây hoa của đồng nội xanh rìNày đây lá của cành tơ phơ phấtCủa yến anh này đây khúc tình si.”Thiên nhiên trong thơ Xuân Diệu đầy thanh sắc được cảm nhận từ nhiều góc độ, bằng giác quan tinh tế:“Ta muốn ômCả sự sống mới bắt đầu mơn mởnTa muốn riết mây đưa và gió lượnTa muốn say cánh bướm với tình yêuTa muốn thâu trong một cái hôn nhiềuVà non nước và cây và cỏ rạngCho chuếnh choáng mùi thơm cho đã đầy ánh sángCho no nê thanh sắc của thời tươiHỡi xuân hồng ta muốn cắn vào ngươi”Thơ Xuân Diệu còn là một nguồn sống dào dạt chưa từng thấy ở chốn nước non lặng lẽ này.Một giá trị tư tưởng đáng kể nữa là dòng văn học lãng mạn nói chung và của Xuân Diệu, Huy Cận, Hàn Mặc Tử nói riêng là đã đóng góp cho nền văn học mới một cái tôi cá thể hóa. Chính vì vậy mà Tố Hữu có nhận xét là phong trào thơ mới đã nói lên được một nhu cầu mới về tự do và về phát huy bản ngã. Hoài Thanh cũng đánh giá cao cái Tôi của các nhà thơ lãng mạn: Xã hội Việt Nam từ xưa không có cá nhân chỉ có đoàn thể: lớn thì quốc gia, nhỏ thì gia đình. Còn cá nhân, cái bản sắc của cá nhân chìm đắm trong gia đình, trong quốc gia như giọt nước trong biển cả. Xuân Diệu, Huy Cận, Hàn Mặc Tử khẳng định cái Tôi như một bản lĩnh tích cực trong cuộc sống, như một chủ thể sáng tạo độc đáo trong nghệ thuật. Ta hãy nghe Hoài Thanh bình về một cánh cò trong thơ Xuân Diệu:“Mây biếc về đâu bay gấp gấpCon cò trên ruộng cánh phân vân.”“Từ con cò của Vương Bột lặng lẽ bay với ráng chiều đến con cò của Xuân Diệu không bay mà cánh phân vân có sự cách biệt hơn 1000 năm và của hai thế giới”.Thơ mới không chấp nhận lối cảm thụ chung chung tan biến vào cái ước lệ vĩnh hằng. Xuân Diệu, Huy Cận, Hàn Mặc Tử đều thể hiện cái Tôi cá thể hóa khiến cho ngoại giới nhiễm linh hồn của thi nhân. “Đời chúng ta đã nằ cách đây 1 năm Báo cáo vi phạm Phân tích bài thơ " Đây thôn vĩ dạ" ĐÂY THÔN VĨ DẠHàn Mặc Tử (1912-1940) là một nhà thơ có sức sáng tạo mạnh mẽ nhất trong phong trào thơ mới. Ông để lại cho văn học Việt Nam nhiều tác phẩm có giá trị như:”Gái quê , Thơ điên ,Chơi giữa mùa trăng’…Đặc sắc và gây xúc động nhất là bài “Đây thôn vĩ dạ” được trích trong tập ‘Thơ điên”. Bài thơ là bức tranh tuyệt đẹp về miền quê đất nước và là tiếng lòng của 1 con người tha thiết yêu đời,yêu người.“Sao anh không về chơi thôn vĩ…..Ai biết tình ai có đậm đà”Mở đầu bài thơ là lời trách móc nhẹ nhàng:“Sao anh không về chơi thôn vĩ”Một câu hỏi của cô gái Thôn Vĩ chan chứa yêu thươg mong đợi.Câu thơ vừa là lời trách móc vừa là lời mời gọi thiết tha. Thôn Vĩ đã hiện ra với một khung cãnh thiên nhiên tươi đẹp và thơ mộng.‘Nhìn nắng hàng ………………………………..mặt chữ điền”‘Nắng mới’ là nắng sớm bắt đầu của một ngày và là nắng của mùa xuân, rực rỡ,nồng nàn. Những tia nắng đầu tiên ấy chiếu rọi vào những vườn cau, làm cho hạt sương đêm đọng lại sáng lên lấp lánh như những viên ngọc màu xanh biếc.‘Vườn ai mướt wá xanh như ngọc’Đến câu thơ này một khoảng xanh của vườn tược hiện ra. Màu “xanh như ngọc” tạo nên một vẻ đẹp lấp lánh, trong trẻo làm cho vườn cây tươi sáng lên.Ở đó ta bắt gặp hình ảnh những chiếc lá trúc thanh mảnh, mơ màng đang che ngang gương mặt chữ điền.”Mặt chữ điền”tượng trưng cho khuôn mặt đẹp dịu hiền và thanh cao của con người xứ Huế.Những câu thơ tiếp theo, tác giả chuyển sang tã cảnh sông, với nỗi nhớ mong da diết:”“Gíó theo lối gió……………………………về kịp tối nay”Hình ảnh”gió”và”mây”gợi buồn vì nó trôi nổi lang thang.Ở đây,tác giả miêu tả “gió theo lối gió mây đường mây”càng tô đậm thêm nỗi buồn về sự chia li,cách biệt.Câu thơ đã để lại cho chúng ta niềm phảng phất u buồn. Lúc này giọng thơ không còn tươi vui nữa mà trở nên chậm rãi, u uất hơn:“Dòng nước buồn hiu hoa bắp lay”Với một tâm hồn mãnh liệt như HMT thì dòng sông trôi nổi lững lờ kia chỉ là một “dòng nước buồn hiu mà thôi”. Hình ảnh “hoa bắp lay” hiện ra như một màu xám ảm đạm tẻ nhạt như màu khói.Dòng nước trôi êm đềm quá gợi đến những bến bờ xa vắng, những cành bèo trôi dạt lênh đênh như những kiếp người. Ý thơ thật buồn được nối tiếp trong hai câu thơ:“Thuyền ai đậu………………………………….kịp tối nay”Vần trăng trở nên thân thuộc và dường như đó cũng là của riêg HMT. Cảnh vật thiên nhiên ngập tràn ánh trăng và trở nên thơ mộng quá! Tác giã đã gửi gắm một tình yêu khát khao,nỗi mong nhớ vào con thuyền trăng,dòng sông trăng. Nhưng dường như con thuyền không kịp chở trăng về cho người trên bến đợi?Câu thơ cho thấy rõ nỗi niềm trống trải và hơn hết là khát khao chạy đua cùng thời gian của thi nhân Thế nhưng lúc ấy ông vẫn tiếp tục mơ:“Mơ khách đường xa…………………………………..có đậm đà”Màu áo trắng là màu áo cũa Vĩ Dạ mà cũng là màu của sự trong trắng thanh khiết, cao quý của người xứ Huế mà tác giả cảm nhận đượcPhải chăng giữa giai nhân áo trắng ấy và thi nhân vẫn còn là khoảng cách khiến thi nhân không khỏi nghi ngờ:“Ở đây sương……………………………….đậm đà”Câu thơ tả một cảnh Huế đầy sương khói. Phải chăng, trong màn sương khói ấy nhạt nhòa ấy, con người và tình người đang dần mờ đi “ áo em trắng quá nhìn không ra”? Ở đây, tác giả không tả cảnh mà tả tâm trạng mình. Dường như, trong tâm tưởng của nhà thơ, tất cả đều trở nên nhạt nhòa mờ ảo.“Ai biết tình ai có đậm đà”Đại từ phiếm chỉ “ai” như một lời khẳng định về một tình yêu tha thiết của thi nhân giành cho thiên nhiên và con người xứ Huế. Ở nơi xa đó, ai có biết tình ai đậm đà? Bài thơ đã khép lại nhưng mở ra biết bao thổn thức trong lòng người đọc. “Đây thôn vĩ dạ” là một bức tranh đẹp về cảnh người xứ Huế qua tâm hồn trong sáng, giàu xúc cảm của tác giả. Bằng tình yêu của một con người bất hạnh, HMT đã lay động lòng người đọc suốt bao năm tháng. Bài thơ là tiếng lòng về tình yêu quê hương đất nước trong sáng, giản dị của nhà thơ. -Mở bài: nêu những nét khái quát về tác giả, tác phẩm, nêu chủ đề mình muốn nói (vội vàng" là lời giục giã hãy sống mãnh liệt, sống hết mình, hãy quý trọng từng giây, từng phút của cuộc đời mình, nhất là những tháng năm của tuổi trẻ, của một hồn thơ yêu đời, ham sống đến cuồng nhiệt"qua bài thơ "vội vàng", em hãy làm sáng tỏ nhận định trên) dựa vào bài phân tích mà làm, có thể cho bạn vài câu hỏi để trả lời như sau: vì sao nhà thơ sống mãnh liệt? giá trị cuộc sống thế nào? điều gì sẽ xảy ra khi tuổi trẻ qua đi? điều gì đã thôi thúc tác giả ham sống, háo hức với đời?-Thân bài: phân tích bài thơi vội vàng (đồng thời phải diễn giải, dẫn chứng cho chủ đề là lời giục giã hãy sống mãnh liệt, sống hết mình, hãy quý trọng từng giây, từng phút của cuộc đời mình, nhất là những tháng năm của tuổi trẻ, của một hồn thơ yêu đời, ham sống đến cuồng nhiệt...)-Kết bài: Kết luận bài thơ và đồng cảm với nhà thơ về quan niệm sống, tuổi trẻ...Bài tham khảo:Nhà thơ Thế Lữ, trong lời Tựa cho tập Thơ Thơ của Xuân Diệu, đã có nhận xét khá tinh tế: “Xuân Diệu là một người của đời, một người ở giữa loài người. Lầu thơ của ông xây dựng trên đất của một tấm lòng trần gian” . Đã hơn hai mươi năm Xuân Diệu giã từ chúng ta vào cõi hư vô, nhưng “tấm lòng trần gian” của ông dường như vẫn còn ở lại. Cứ mỗi lần xuân tới, những trái tim non trẻ của các thế hệ học sinh lại rung lên những cảm xúc mãnh liệt trước tâm tình của Xuân Diệu gửi gắm với đời trong bài thơ Vội vàng, gắn với niềm khát khao giao cảm với đất trời, con người tràn mê đắm của thi nhân, trong mùa xuân diệu kì!Làm thơ xuân vốn là một truyền thống của thi ca Việt Nam, bao nét xuân đi vào thi ca đều mang một dấu ấn cảm xúc riêng. Đặc biệt, trong thơ lãng mạn Việt Nam 1932 – 1945, mùa xuân còn gắn với cái tôi cá nhân cá thể giàu cảm xúc của các nhà thơ mới. Có thể kể đến một Hàn Mặc Tử với “khách xa gặp lúc mùa xuân chín…”, một Nguyễn Bính với “mùaxuân là cả một mùa xanh…”. Nhưng có lẽ Xuân Diệu chính là người đã đem vào trong cảm xúc mùa xuân tất cả cái rạo rực đắm say của tình yêu. Vội vàng là lời tâm tình với mùa xuân của trái tim thơ tuổi hai mươi căng nhựa sống.Cái động thái bộc lộ đầy đủ nhất thần thái của Xuân Diệu có lẽ là vội vàng. Ngay từ hồi viết Thi nhân Việt Nam, Hoài Thanh đã thấy “Xuân Diệu say đắm tình yêu, say đắm cảnh trời, sống vội vàng, sống cuốn quýt”. Cho nên, đặt cho bài thơ rất đặc trưng của mình cái tên Vội vàng, hẳn đó phải là một cách tự bạch, tự họa của Xuân Diệu. Nó cho thấy thi sĩ rất hiểu mình.Thực ra, cái điệu sống vội vàng, cuống quýt của Xuân Diệu bắt nguồn sâu xa từ ý thức về thời gian, về sự ngắn ngủi của kiếp người, về cái chết như là một kết cục không tránh khỏi mai hậu. Sống là cả một hạnh phúc lớn lao diệu kỳ. Mà sống là phải tận hiến và tận hưởng! Đời người là ngắn ngủi, cần tranh thủ sống. Sống hết mình, sống đã đầy. Thế nên phải chớp lấy từng khoảnh khắc, phải chạy đua với thời gian. Ý thức ấy luôn giục giã, gấp gáp. Bài thơ này được viết ra từ cảm niệm triết học ấy.Thông thường, yếu tố chính luận đi cùng thơ rất khó nhuần nhuyễn. Nhất là lối thơ nghiêng về cảm xúc rất “ngại” đi cùng chính luận. Ấy thế nhưng nhu cầu phô bày tư tưởng, nhu cầu lập thuyết lại không thể không dùng đến chính luận. Thơ Xuân Diệu hiển nhiên là loại thơ xúc cảm. Nhưng đọc kỹ sẽ thấy rằng thơ Xuân Diệu cũng rất giàu chính luận. Nếu như cảm xúc làm nên cái nội dung hình ảnh, hình tượng sống động như mây trôi, nước chảy trên bề mặt của văn bản thơ, thì dường như yếu tố chính luận lại ẩn mình, lặn xuống bề sâu, làm nên cái tứ của thi phẩm. Cho nên mạch thơ luôn có được vẻ tự nhiên, nhuần nhị. Vội vàng cũng thế. Nó là một dòng cảm xúc dào dạt, bồng bột cuốn theo bao hình ảnh thi ca như gấm như thêu của cảnh sắc trần gian. Nhưng nó cũng là một bản tuyên ngôn bằng thơ, trình bày cả một quan niệm nhân sinh về lẽ sống vội vàng. Có lẽ không phải thơ đang minh họa cho triết học. Mà đó chính là minh triết của một hồn thơ.Mục đích lập thuyết, dạng thức tuyên ngôn đã quyết định đến bố cục của Vội vàng. Thi phẩm khá dài nhưng tự nó hình thành hai phần khá rõ rệt. Cái cột mốc ranh giới giữa hai phần đặt vào ba chữ “Ta muốn ôm”. Phần trên nghiêng về luận giải cái lí do vì sao cần sống vội vàng. Phần dưới là bộc lộ cái hành động vội vàng ấy. Nói một cách vui vẻ: trên là lý thuyết, dưới là thực hành! Điều rất dễ thấy là thi sĩ chọn cách xưng hô cho từng phần. Ở trên, xưng “tôi”, lập thuyết đối thoại với đồng loại. Ở dưới, xưng “ta”, đối diện với sự sống. Phần luận lí có xu hướng cắt xẻ bài thơ. Nhưng hơi thơ bồng bột, giọng thơ dào dạt, sôi nổi đã xóa mọi cách ngăn, khiến thi phẩm vẫn luôn là một chỉnh thể sống động, tươi tắn và truyền cảm.Mở đầu bài thơ là một khổ ngũ ngôn thể hiện một ước muốn kì lạ của thi sĩ. Ấy là cái ước muốn quay ngược quy luật tự nhiên – một ước muốn không thể:Tôi muốn tắt nắng điCho màu đừng nhạt mất;Tôi muốn buộc gió lạiCho hương đừng bay đi.Muốn “tắt nắng”, muốn “buộc gió”, thật là những ham muốn kỳ dị, chỉ có ở thi sĩ. Nhưng làm sao cưỡng được quy luật, làm sao có thể vĩnh viễn hóa được những thứ vốn ngắn ngủi mong manh ấy? Cái ham muốn lạ lùng kia đã hé mở cho chúng ta một lòng yêu bồng bột vô bờ đối với cái thế giới thắm sắc đượm hương này.Thế giới này được Xuân Diệu cảm nhận theo một cách riêng. Nó bày ra như một thiên đường trên mặt đất, như một bữa tiệc lớn của trần gian. Được cảm nhận bằng cả sự tinh vi nhất của một hồn yêu đầy ham muốn, nên sự sống cũng hiện ra như một thế giới đầy xuân tình. Cái thiên đường sắc hương đó hiện ra trong Vội vàng vừa như một mảnh vườn tình ái, vạn vật đương lúc lên hương, vừa như một mâm tiệc với một thực đơn quyến rũ, lại vừa như một người tình đầy đắm say. Xuân Diệu cũng hưởng thụ theo một cách riêng. Ấy là hưởng thụ thiên nhiên như hưởng thụ ái tình. Yêu thiên nhiên mà thực chất là tình tự với thiên nhiên.Hãy xem cách diễn tả vồ vập về thiên nhiên ở thì xuân sắc, một thiên nhiên rạo rực xuân tình:Của ong bướm này đây tuần tháng mật,Này đây hoa của đồng nội xanh rì,Này đây lá của cành tơ phơ phất;Của yến anh này đây khúc tình si,Và này đây ánh sáng chớp hàng mi.Mỗi sáng sớm thần Vui hằng gõ cửa;Tháng giêng ngon như một cặp môi gần;Có lẽ trước Xuân Diệu trong thơ Việt Nam chưa có cảm giác “Tháng giêng ngon như một cặp môi gần”. Nó là cảm giác của ái ân tình tự. Cảm giác ấy đã làm cho người ta thấy tháng giêng mơn mởn non tơ đầy một sức sống thanh tân kia mà sao quyến rũ – tháng giêng mang trong nó sức quyến rũ không thể cưỡng được của một người tình rạo rực, đắm say.Hai mảng thơ đầu kế tiếp nhau đã được liên kết bằng cái logic luận lí ngầm của nó. Thi sĩ muốn “tắt nắng”, “buộc gió” chính vì muốn giữ mãi hương sắc cho trần thế này đây. Hương sắc là cái sinh khí của nó, là cái vẻ đẹp, cái nhan sắc của nó. Tất cả chỉ rực rỡ trong độ xuân thì. Mà xuân lại vô cùng ngắn ngủi. Và thế là mảng thơ thứ ba của phần luận giải đã hình thành để nói về cái ngắn ngủi đến tàn nhẫn của xuân thì đối với sự sống và cái xuân thì của con người. Phải, cái thế giới này lộng lẫy nhất, “ngon” nhất là ở độ xuân; còn con người cũng chỉ hưởng thụ được cái “ngon” kia khi còn trẻ thôi. Mà cả hai đều vô cùng ngắn ngủi, thời gian sẽ cướp đi hết thảy. Có lẽ cũng lần đầu tiên, thơ ca Việt Nam có được cái quan niệm này:Xuân đương tới, nghĩa là xuân đương qua,Xuân còn no nghĩa là xuân sẽ già.Con người thời trung đại hình như yên trí với quan niệm thời gian tuần hoàn với cái chu kỳ bốn mùa, cũng như cái chu kì ba vạn sáu ngàn ngày của kiếp người. Con người hiện đại sống với quan niệm thời gian tuyến tính, thời gian như một dòng chảy mà mỗi một khoảnh khắc qua là mất đi vĩnh viễn. Cho nên Xuân Diệu đã nồng nhiệt phủ định:Nói làm chi rằng xuân vẫn tuần hoàn,Nếu tuổi trẻ chẳng hai lần thắm lại !Thước đo thời gian của thi sĩ là tuổi trẻ. Tuổi trẻ một đi không trở lại thì làm chi có sự tuần hoàn !Trong cái mênh mông của đất trời, cái vô tận của thời gian, sự có mặt của con người thật là ngắn ngủi, hữu hạn. Nghĩ về tính hạn chế của kiếp người, Xuân Diệu đã đem đến một nỗi ngậm ngùi thật mới mẻ:Còn trời đất, nhưng chẳng còn tôi mãi,Nên bâng khuâng tôi tiếc cả đất trời;Và đem đến một cảm nhận đầy tính lạ hóa về thời gian và không gian:Mùi tháng năm đền rớm vị chia phôiKhắp sông núi vẫn than thầm tiễn biệt…Là người đã tiếp thu ở mức nhuần nhuyễn phép “tương giao” của lối thơ tượng trưng, Xuân Diệu đã phát huy triệt để sự tương giao về cảm giác để cảm nhận và mô tả thế giới. Thời gian được cảm nhận bằng khứu giác: “Mùi tháng năm” – thời gian của Xuân Diệu được làm bằng hương – chẳng thế mà thi sĩ cứ muốn buộc gió lại ư? Một chữ “rớm” cho thấy khứu giác đã chuyển thành thị giác. Nó nhắc ta nhớ đến hình ảnh giọt lệ. Chữ “vị” liền đó, lại cho thấy cảm giác thơ đã chuyển qua vị giác. Và đây là một vị hoàn toàn phi vật chất: “vị chia phôi” ! Thì ra chữ “rớm” và chữ “vị” này đều từ một hình ảnh ẩn hiện là giọt lệ chia phôi đó. Vì sao thời gian lại mang cái hương vị - hình thể của chia phôi? Ấy là những cảm giác chân thực hay chỉ là trò diễn của ngôn ngữ theo kịch bản của phép “tương giao”? Cái tinh tế của Xuân Diệu chính là ở đấy ! Thi sĩ cảm thấy thật hiển hiện mỗi khoảnh khắc đang lìa bỏ hiện tại để trở thành quá khứ thật sự là một cuộc ra đi vĩnh viễn. Trên mỗi thời khắc đều đang diễn ra một cuộc chia tay của thời gian với con người, với không gian và với cả chính thời gian. Cho nên thi sĩ nghe thấy một lời than luôn âm vang khắp núi sông này, một lời than vĩnh viễn: than thầm tiễn biệt. Không gian đang tiễn biệt thời gian ! Và thời gian trôi đi sẽ khiến cho cái nhan sắc thiên nhiên diệu kỳ này bước vào độ tàn phai. Một sự tàn phai không thể nào tránh khỏi !Thế đấy, không thể buộc gió, không thể tắt nắng, cũng không thể cầm giữ được thời gian, thì chỉ có cách thực tế nhất là chạy đua với thời gian, là phải tranh thủ sống:Chẳng bao giờ, ôi ! Chẳng bao giờ nữa…Mau đi thôi ! Mùa chưa ngả chiều hômĐến đây phần luận giải của tuyên ngôn vội vàng đã đủ đầy luận lý !Bài thơ được kết thúc bằng những cảm xúc mãnh liệt, bằng những tham muốn mỗi lúc một cuồng nhiệt , vồ vập. Đó là cả một cuộc tình tự với thiên nhiên, ái ân cùng sự sống. Chỉ có thể diễn tả như thế, Xuân Diệu mới phô diễn được cái lòng ham sống, khát sống sung mãn của mình:Ta muốn ômCả sự sống mới bắt đầu mơn mởnTa muốn riết mây đưa và gió lượnTa muốn say cánh bướm với tình yêuTa muốn thâu trong một cái hôn nhiềuVà non nước, và cây, và cỏ rạng,Cho chuếnh choáng mùi thơm, cho đã đầy ánh sáng,Cho no nê thanh sắc của thời tươi;- Hỡi xuân hồng, ta muốn cắn vào ngươi !Nếu chọn một đoạn thơ trong đó cái giọng sôi nổi bồng bột của Xuân Diệu thể hiện đầy đủ nhất, thì đó phải là đoạn thơ này. Ta có thể nghe thấy giọng nói, nghe thấy cả nhịp đập của con tim Xuân Diệu trong đoạn thơ ấy. Nó hiện ra trong những làm sóng ngôn từ đan chéo nhau, giao thoa và song song vỗ vào tâm hồn người đọc. Cái điệp ngữ “ta muốn” được lặp đi lặp lại với mật độ thật dày và cũng thật đích đáng. Nhất là mỗi lần điệp lại đi liền với một động thái yêu đương mỗi lúc một mạnh mẽ, mãnh liệt, nồng nàn: ôm – riết – say – thâu – cắn. Có thể nói câu thơ “Và non nước, và cây, và cỏ rạng” là không thể có đối với thư pháp trung đại vốn coi trọng những chữ đúc. Thậm chí, đối với thơ xưa, đó sẽ là câu thơ vụng. Tại sao lại thừa thãi liên từ “và” đến thế ? Vậy mà, đó lại là sáng tạo của nhà thơ hiện đại Xuân Diệu. Những chữ “và” hiện diện cần cho sự thể hiện nguyên trạng cái giọng nói, cái khẩu khí của thi sĩ. Nó thể hiện đậm nét sắc thái riêng của cái tôi Xuân Diệu. Nghĩa là thể hiện một cách trực tiếp, tươi sống cái cảm xúc tham lam đang trào lên mãnh liệt trong lòng ngực yêu đời của thi sĩ !Câu thơ:Cho chuếnh choáng mùi thơm, cho đã đầy ánh sáng,Cho no nê thanh sắc của thời tươi;cũng tràn đầy những làn sóng ngôn từ như vậy. Từ “cho” điệp lại với mức độ tăng tiến nhấn mạnh các động thái hưởng thụ thỏa thuê: chuếnh choáng – đã đầy – no nê. Sóng cứ càng lúc càng dâng cao, càng vỗ mạnh, đẩy cảm xúc lên tột đỉnh:Hỡi xuân hồng, ta muốn cắn vào ngươi !Ta thấy Xuân Diệu như một con ong hút nhụy đã no nê đang lảo đảo bay đi. Lại thấy thi sĩ như một tình lang trong cuộc tình chuếnh choáng men say.Có thể nói Xuân Diệu qua bài thơ này không chỉ "sống" hay "ham sống" mà ông "say sống". Sống mãnh liệt, hối hả kẻo nữa lại tiếc nuối - Đó là một nhân sinh quan lành mạnh. Nó khác với sự nguội lạnh, hờ hững, lạt lẽo. Bài thơ là nhịp đập gấp gáp trước "thanh sắc trần gian" một ngày xuân của một trái tim chưa bao giờ chán sống.Sống là hạnh phúc. Muốn đạt tới hạnh phúc phải sống vội vàng. Thế là, vội vàng là cách đến với hạnh phúc, là chính hạnh phúc, và hình như cũng là cái giá phải trả cho hạnh phúc vậy ! Ta hiểu vì sao khi Xuân Diệu xuất hiện, lập tức thi sĩ đã thuộc về tuổi trẻ !nguồn:giangvien. Phân tích tác phẩm "Tràng Giang" của Huy Cận Nhà thơ Huy Cận tên thật là Cù Huy Cận, với giọng thơ rất riêng đã khẳng định tên tuổi của mình trong phong trào thơ mới 1930-1945. Ông vốn quê quán Hương Sơn, Hà Tĩnh, sinh năm 1919 và mất năm 2005. Trước Cách mạng tháng tám, thơ ông mang nổi sầu về kiếp người và ca ngợi cảnh đẹp của thiên nhiên, tạo vật với các tác phẩm tiêu biểu như: "Lửa thiêng", "Vũ trụ ca", Kinh cầu tự". Nhưng sau Cách mạng tháng tám, hồn thơ của ông đã trở nên lạc quan, được khơi nguồn từ cuộc sống chiến đấu và xây dựng đất nước của nhân dân lao động: "Trời mỗi ngày lại sáng", "Đất nở hoa", "Bài thơ cuộc đời"... Vẻ đẹp thiên nhiên nỗi ưu sầu nhân thế, một nét thơ tiêu biểu của Huy Cận, được thể hiện khá rõ nét qua bài thơ "Tràng Giang". Đây là một bài thơ hay, tiêu biểu và nổi tiếng nhất của Huy Cận trước Cách mạng tháng tám. Bài thơ được trích từ tập "Lửa thiêng", được sáng tác khi Huy Cận đứng ở bờ Nam bến Chèm sông Hồng, nhìn cảnh mênh mông sóng nước, lòn
File đính kèm:
- on thi hoc kiII.doc