Những bài viết hay dành cho học sinh giỏi lớp 8
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Những bài viết hay dành cho học sinh giỏi lớp 8, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ SỞ acc NGUYỄN DU acc TUYỂN TẬP NHỮNG MẪU BÀI VIẾT TRONG CHƯƠNG TRÌNH NGỮ VĂN LỚP 8 Ngêi thùc hiƯn: NguyƠn Ch©u An (C1) Ơ Năm học: 2012 - 2013 Đề bài 1: Cĩ ý kiến cho rằng: Tình mẫu tử là mạch nguồn tình cảm khơng bao giờ vơi trong tâm hồn mỗi con người. Theo em, mạch nguồn tình cảm ấy được thể hiện như thế nào qua nhân vật bé Hồng qua đoạn trích “Trong lịng mẹ” (trích hồi kí “Những ngày thơ ấu - Nguyên Hồng). Dàn ý bài chi tiết (bài viết bên dưới) Mở bài: - Dẫn dắt một câu thơ nào đĩ để làm tốt lên vẻ đẹp trong văn của nhà văn Nguyên Hồng hoặc cĩ thể giới thiệu nhà văn Nguyên Hồng. - Dẫn dắt vấn đề: Tình mẫu tử là mạch nguồn tình cảm khơng bao giờ vơi trong tâm hồn mỗi con người. Thân bài: Chứng minh ý kiến trên là đúng thơng qua tác phẩm “Trong lịng mẹ” (trích “Những ngày thơ ấu”) của Nguyên Hồng. - Luận điểm 1: Đoạn chuyển. + Giải thích thế nào là tình mẫu tử? (khẳng định đĩ là một thứ tình cảm thiêng liêng và khơng bao giờ cĩ thể giải thích được - dẫn dắt nhân vật bé Hồng sau phần giải thích - cĩ thể so sánh với các nhân vật khác ở truyện khác). + Tĩm tắt hay nĩi cách khác là kể lại một cách thật ngắn gọn hồn cảnh của bé Hồng và nhắc lại tình cảm của bé Hồng đối với mẹ. - Luận điểm 2: Chứng minh tình yêu thương của bé Hồng đối với mẹ thơng qua cuộc đối thoại với bà cơ độc ác. + Bà cơ: Các câu hỏi của bà cơ thì như muốn cắt vào từng miếng thịt cảu bé, bà ta muốn gieo rắc vào tâm trí non nớt của bé những hình ảnh xấu xa nhất, cịm cõi nhất về người mẹ đẹp trong lịng cậu bé bây lâu nay (nêu rõ từng cử chỉ, hành động và thái độ của bà cơ sau khi nĩi và trước mặt bé Hồng) - dẫn chứng cụ thể trích từ tác phẩm (các câu hỏi - câu trả lời của bà cơ). + Bé Hồng: Từng khung bậc cảm xúc của bé được thể hiện ngay trên khuơn mặt và bé đã nấc lên trong tiếng khĩc khi những lời nĩi cảu bà cơ nĩi ra. Bé đã sớm nhận ra những rắp tâm tanh bẩn của bà cơ và chính cái rắp tâm đĩ đã giúp sợi dây mẫu tử kia càng thêm gắn kết - dẫn chứng cụ thể trích từ tác phẩm (các câu trả lời - câu hỏi của bé Hồng và khung bậc cảm xúc nhân vật). Lưu ý: Khi chứng minh tình yêu thương qua cuộc đối thoại với bà cơ thì nên đan xen những câu hỏi, câu trả lời và khung bậc cảm xúc của nhân vật để nghị luận. Mỗi lần chứng minh thì nên tác đoạn, khơng nên kể nhiều, cần phải láy lại tình yêu thương của bé Hồng đối với mẹ và khẳng định cuối đoạn. - Luận điểm 3: Chứng minh tình yêu thương của bé Hồng đối với mẹ trong hồn cảnh “mẫu tử đồn viên”. Lưu ý: Trước khi sang luận điểm 3 cần phải cĩ một đoạn chuyển từ luận điểm này sang luận điểm khác. Vì trong hai luận điểm thì đều cĩ cái chung là chứng minh tình yêu thương của bé Hồng đối với mẹ nên cần phải khẳng định lại một lần nữa tình yêu thương nồng nàn, được nén lại rồi bùng lên một cách dữ dội hơn khi bé Hồng gặp mẹ (cần liên kết sang luận điểm 3). + Dường như, lúc cậu gần như là tuyệt vọng thì sợi dây tình mẫu tử lại tiếp thêm sức mạnh cho cậu - mẹ cậu đã về trong sự tha thiết của đứa con khao khát tình mẹ bấy lâu. + Chứng minh tình yêu thương của bé Hồng bằng chính khung bậc cảm xúc của bé khi: 1, được gặp mẹ ; 2, được nhìn mẹ ; 3, được ngồi trong lịng mẹ (phải đáp ứng đủ 3 điều trên thơng qua các dẫn chứng cụ thể). + Khẳng định tình mẫu tử đẹp và tuyệt vời đã giúp bé thốt khỏi đám bùn lầy đau khổ và làm tan biến đi tất cả những ý nghĩ cay độc mà bà cơ đã gieo rắc vào đầu cậu bé. Lưu ý: Vì đây là trọng tâm của đề bài nên khi làm bài cần xốy sâu vào luận điểm này, các luận điểm khác tuy phải đầy đủ ý những khơng nên viết dài và đầu tư, nên tập trung vào luận điểm này vì đây mới là dịp để tình yêu của bé Hồng được thể hiện. Khẳng định tình mẫu tử là tình cảm bất diệt. - Luận điểm 4: Mở rộng vấn đề (đánh giá vấn đề, phản đề, liên hệ - mở rộng). + Đánh giá vấn đề: Khẳng định, tình mẫu tử sẽ mãi khơng bao giờ phai trong bé Hồng và đặc biệt hơn là sẽ khơng bao giờ mất đi trong những con người cĩ trái tim bất tử. + Phản đề: Thường cĩ trong văn nghị luận về tư tưởng đạo lí, đời sống, hiện tượng xã hội, nếu là học sinh cĩ sức viết tốt, biết cân chỉnh thời gian hợp lí thì nên cho mục phản đề này vào: khẳng định, trong xã hội hiện nay, khơng cĩ ít những trường hợp “bán rẻ” tình mẫu tử, khơng coi đĩ là một tình cảm chân chính và cĩ những hành vi trái ngược với vấn đề chứng minh. Qua đĩ, ta cĩ thể lên án những hành vi đĩ ... + Liên hệ - mở rộng: bao gồm liên hệ bản thân và liên hệ với các tác phẩm khác. Khi liên hệ bản thân: ta nên liên hệ với thực tế đời sống và với bản thana mình rồi đưa ra những việc làm tốt (những việc làm trái ngược thì đã cĩ ở mục phản đề, nếu khơng viết mục phản đề thì nên lướt qua). Khi liên hệ với các tác phẩm khác: liện hệ với những tác phẩm cĩ chung chủ đề (vd: Huệ Chi trước lễ cưới, Mợ Du, ... khơng nhất thiết phải cùng tác giả) và nêu nổi vật những điểm chung của các tác phẩm rồi đánh giá, nhận xét vấn đề chứng minh. Lưu ý: Ngồi ra, ta cĩ thể nhận xét nghệ thuật miêu tả tâm lí nhân vật, nghệ thuật kể chuyện và đánh giá giọng văn của nhà văn Nguyên Hồng để khẳng định: trong văn ơng luơn cĩ tình người ... Kết bài: Khẳng định lại vấn đề theo hướng mở rộng của bản thân. (trải nghiệm kiến thức bản thân) Bài làm mẫu “Con suốt đời vẫn là con của mẹ Đi suốt đời, lịng mẹ vẫn theo con” (Tố Hữu) Mẹ dù thế nào đi chăng nữa vẫn mãi theo ta. Chính sợi dây thiêng liêng gắn kết giữa mẹ và con mà được gọi với cái tên thiêng liêng, cao quý - tình mẫu tử đã làm làm nền tảng vững chắc cho con chập chứng bước đi trên con đường đời. Mẹ đã mang đến cho con tình thương da diết, mẹ đã trao cho con trái tim hi vọng, trao cho con hơi thở nồng ấm, ru đời con khơn lớn. Nhà văn Nguyên Hồng cũng vậy, những câu chữ ơng viết ra dường như rất thiêng liêng ẩn hằn trong đĩ là tồn bộ suy nghĩ và cảm xúc về người mẹ bất tận của ơng. Đến với đoạn trích “Trong lịng mẹ”, ta bỗng xĩt xa trước nhân vật bé Hồng, mang theo cái dư vị đắng chát của một tuổi thơ khao khát tình mẹ. Cho đến tận bây giờ, khi đọc lại những trang viết này, người đọc vẫn lây lan cái cảm giác của cậu bé sớm phải chịu cảnh thiếu thốn tình cảm để rồi, những đồng giả chúng ta bất chợt nhận ra rằng: “Tình mẫu tử là mạch nguồn tình cảm khơng bao giờ vơi trong tâm hồn mỗi con người”. Nếu cĩ người hỏi tơi: Tình mẫu tử là gì? thì cĩ lẽ, tơi sẽ đáp lại rằng: tình mẫu tử khơng thể giải thích được vì đĩ là thứ tình cảm tuyệt diệu. Nĩ đơn sơ, giản dị những vẫn thể hiện được cái gì đĩ phập phồng, thổn thức trong trái tim. Và đặc biệt hơn, nĩ lại càng phập phồng hơn, thổn thức hơn khi được thể hiện qua nhân vật bé Hồng. Tình cảm ấy như ánh sáng dịu mát, như bĩng cây trên cao, như dịng sữa ngọt ngào vẫn chảy mãi trong trái tim những người con như chúng ta. Cuộc đời thật cơng bằng biết bao khi mỗi người chúng ta vẫn gọi đĩ là “tình mẫu tử”. Tuy đoạn trích với dung lượng khơng dài nhưng điều ta bắt gặp trong đĩ khơng phải là cảnh khốn cùng như trong “Lão Hạc” hay cùng cột như trong “Tức nước vỡ bờ”. Tuy vẫn thể hiện được chất văn của dịng văn hiện thực phê phán nhưng đoạn trích lại ẩn chứa sâu một thứ tình cảm thiêng liêng, mặn nồng - tình mẫu tử. Và khi đọc những dịng văn như trút cả bao điều đĩng đĩt vào trái tim người đọc để rồi ta mới cảm nhận được thế nào là thứ tình cảm chân chình. Với một hồn cảnh đặc biệt và đáng thương, bé Hồng sinh ra và lớn lên trong một mái gia đình khơng cĩ hạnh phúc. Bố mất sớm, mẹ phải đành rời bỏ quê hương, rời xa đứa con mà mình đã rứt ruột đẻ ra để đi “tha hương cầu thực” khiến bé Hồng phải cơ đơn, tủi cực giữa sự ghẻ lạnh của gia đình họ nội. Và trong tâm trí cậu bé lúc nào cũng luơn tồn đọng cái dư vị đắng cay về một người mẹ hiền hậu, luơn chở che trong quá khứ. Xung quanh cậu, luơn cĩ những rắp tâm tanh bẩn muốn reo rắc vào tâm trí cậu để cậu ruồng rẫy, khinh rẻ mẹ. Nhưng cũng chính từ cái rắp tâm tanh bẩn, cay độc đĩ, bé Hồng mới cĩ cơ hội bộc lộ rõ những tình cảm của mẹ đối với mẹ đã được ấp ủ bấy lâu. “Gần đến giỗ đầu thấy tơi, mợ tơi ở Thanh Hĩa vẫn chưa về”. Cĩ lẽ, niềm ước mong mẹ của cậu bé đã đến mức cực độ. Cậu sống giữa cảnh đau đớn về mặt tinh thần: mất cha - thiếu mẹ, vậy mà, luơn cĩ những mối rắp tâm bẩn thỉu muốn dấy vào tâm trí non nớt của cậu bé. Một hình ảnh người mẹ: “bán bĩng đèn và những phiên chợ chính cịn bán cả vàng hương”. Câu chuyện đã hé lộ ra một bà cơ tậm địa độc ác, bà ta cố ý nĩi cho cậu bé biết những cảnh ngộ đáng thương của mẹ cậu để cĩ thể cười nhạo, giễu cợt mẹ. Nhưng bà ta hồn tồn khơng hề biết, càng làm như vậy thì tình cảm của bé Hồng giành cho mẹ lại tăng lên gấp bội, tiếp thêm tình cảm và sức mạnh để cậy vượt qua cái xã hội “hỗn mang”, tàn ác ấy. Và rồi, cuộc đối thoại giữa Hồng và bà cơ bắt đầu từ những câu hỏi đầy tanh bẩn hằn chứa một rắp tâm phá đi sợ dây tình cảm giữa bé Hồng và mẹ. “Một hơm cơ tơi gọi tơi đến và bảo: Hồng! Mày cĩ muốn vào Thanh Hĩa chơi với mẹ mày khơng?”. Một câu hỏi đầy “uy lực”, lay động đến thứ tình cảm thiêng liêng của bé Hồng với mẹ, gợi nên trong chú bao buồn tủi xen lẫn sự nhớ nhung dồn nén bây lâu nay. Cậu bé “định toan trả lời cĩ” nhưng rồi, Hồng lại trả lời một cách chắc chắn “Khơng! cháu khơng vào. Cuối năm, thế nào mợ cháu cũng về”. Thật bất ngờ! Cĩ lẽ, Hồng đã sớm nhận ra trong niềm vui “hụt” một điều gì đĩ tanh bẩn của bà cơ. Cậu đã đốn ra được ý định cảu bà cơ như “muốn gieo rắc vào đầu ĩc tơi những hồi nghi để tơi khinh miệt và ruồng rẫy mẹ tơi”. Một ý định tàn bạo! Nhưng may thay, chính cái thiêng liêng, cao quý cảu tình mẫu tử đã kéo cậu lên từ “đám bùn lầy” với những rắp tâm tanh bẩn - “nhưng đời nào lịng yêu thương và sự kính mến mẹ tơi lại bị những rắp tâm tanh bẩn kia xâm phạm đến”. Và những điều đĩ phần nào đã làm rạng lên một tình cảm cao đẹp. Phải chia tay với một cơ hội gặp mẹ “hiếm cĩ”, bé Hồng muốn chạy thật nhanh, tránh đi “câu nĩi cay độc” của bà cơ. Nhưng bà ta lại vẫn chưa tha cho một tâm hồn thơ dại. Bà an ủi bé Hồng bằng một câu nĩi chứa đầy những ý nghĩ tanh bẩn: “Sao lại khơng vào? Mợ mày phát tài lắm, cĩ như dạo trước đâu!”. Giọng nĩi như mỉa mai, giếu cợt, đang “long lanh ... chằm chằm” chờ đợi phản ứng của cậu bé. Đơi mắt cậu đã “khĩe cay như muốn khĩc”. Dường như, những câu nĩi đĩ như “mũi tên” bắng thẳng vào một trái tim khao khát tình mẹ. Liệu rằng, rắp tâm xấu xa, tanh bẩn của bà cơ cĩ thực hiện được hay khơng? Thái độ của bé Hồng ra sao? Tình cảm của bé đối với mẹ cĩ thay đổi hay khơng? Câu chuyện vẫn diên ra và tiếp đĩ là một ý định cay độc: “Mạy quá, cứ vào đi, tao cho tiền tàu, vào mà bắt mợ mày may vá, sắm sửa rồi cịn cho thăm em bé nữa chứ!”. Thật tủi nhục và cau đắng biết bao! Hai tiếng “em bé” được bà cơ “ngân ra thật dài” như sự mỉa mai hay điều ám chỉ gì đĩ. Phải chăng, bà ta muốn “ép” bé Hồng phải nhận ra rằng: “Mợ tơi chưa đoạn tang thầy tơi mà đã chửa đẻ với người khác”. Dường như, tình cảm thiêng liêng đĩ như “lá bùa” hay là một “tấm bia đỡ đạn” giúp cậu cố cầm cự để hỏi trong tiếng khĩc xĩt xa: “Sao cơ biết mợ con?”. Cĩ lẽ, câu nĩi đĩ đã nĩi trúng tim đen tàn ác của bà cơ. Nhưng thật đáng khinh bỉ, “cơ tơi vẫn cứ cười trong tiếng khĩc của tơi”. “Tình cảnh thê thảm của mẹ tơi” như khiến chú như “cắt từng miếng thịt”. Đến lúc này, tâm trạng đau đớn, uất ức của bé Hồng xen lẫn tình yêu tha thiết đã lên tới cực điểm. Từ nỗi đau vì thương mẹ và đặc biệt hơn là sợi dây tình cảm đã khiến bé phải thốt lên từng câu chữ ngậm ngùi, xĩt xa: “Giá mà những cổ tục đã đày đọa mẹ tơi là những thứ như hịn đá hay cục thủy tinh, đầu mẩu gỗ thì tơi quyết vồ lấy mà cắn, mà nhai, mà nghiền cho kì nát vụn mới thơi”. Qua đây, ta mới bất chợt tìm thấy được thứ tình cảm thiêng liêng trong tâm hồn ngây dại. Và cũng cĩ lẽ, bà cơ độc ác đã thỏa được ước nguyện nên đã đổi giọng như “nghiêm nghị” và tỏ ra ngậm ngùi, thương xĩt. Thì ra, nỗi đau đớn mất mát của đứa bé đã lên đến đỉnh điểm, đồng thời, sự tàn nhẫn, thâm hiểm của bà cơ đã lên đến mức tận cùng. Hỏi rằng, liệu tình mẫu tử cao quý, thiêng liêng ấy cĩ được trọn vẹn cho đến cuối cùng hay khơng? Và rồi qua đĩ, tuy ý đồ độc ác của bà cơ vẫn chưa thực hiện được nhưng nĩ vẫn là phần nào giúp bé Hồng vượt lên trên tất cả để hướng đến một chân trời tình yêu thương đích thực. Để rồi điều đĩ sẽ chứng minh cho ý nghĩa của tình mẫu tử cao quý, vẫn luơn “là mạch nguồn cảm xúc khơng bao giờ vơi trong tâm hồn mỗi con người”. Dù qua bao chơng gai, thử thách, vượt lên những “hố sâu tuyệt vọng”, một “vũng đầm lầy” hằn chứa những xấu xa của một xã hội đen tối, khơng chút tình người. Chỉ qua những câu nĩi ngắn gọn, hàm súc được thể hiện qua sự đối thoại với bà cơ, Nguyên Hồng đã chứng minh cho ta thấy, sức mạnh của tình mẫu tử khơng bao giờ kiệt, càng trong cùng cực, cơ đơn, sức mạnh đĩ bị đè nén rồi lại bùng lên dữ dội, ánh lên một sức mạnh bất diệt - và đĩ cũng chính là triết lí nhân sinh của nhà văn Nguyên Hồng. Nhưng rồi, điều đĩ cịn đặc biệt hơn nữa khi người mẹ hiền hậu mà cậu bé mơ ước bấy lâu nay trở về. Dường như, “cái khĩa” bị trĩi buộc lúc trước đang dần dần mở ra. Bĩng tối của những ngày qua đã tan biến, nhường chỗ cho ánh sáng diệu kì tràn ngập trong một tâm hồn trong sáng, đi đơi với đĩ là tiếng gọi khao khát tình mẹ: “Mợ ơi ... mợ ơi ... mợ ơi!”. Ba tiếng gọi cứ ngân dài ra tha thiết mà đằm thắm tột cùng. Dường như, linh cảm xuất phát từ trái tim khao khát của cậu bé hồn tồn đúng. “Chiếc xe kéo” chỉ vừa “thống qua” là chú đã cảm nhận được hương vị ngọt ngào, đằm thắm mà thiếu thốn bấy lấu. Nhưng linh cảm đĩ lại khơng làm cậu lay động mà xen vào đĩ là “ảo ảnh của dịng nước trong suốt, chảy dưới bĩng râm ... đã hiện ra trước mắt gần rạn nứt của người bộ hành giữa sa mạc”. Cĩ lẽ, niềm tin vững chắc lúc trước của cậu đã cạn kiệt mà đúng hơn là gần tuyệt vọng. Phải chăng, chỉ cĩ dịng sữa ngọt ngào cảu người mẹ mới bồi đắp được vết rạn nứt trong trái tim non nớt ấy. Giây phút cậu bé gần như là tuyệt vọng thì bỗng “xe chạy chầm chậm ... mẹ tơi cầm nĩn vẫy tơi”. Bây giờ thì khơng cịn là những giọt lệ đau đớn nữa mà thay vào đĩ là những giọt nước mắt chảy dài trên khuơn mặt hạnh phúc, thấm đẫm trong trái tim ấm nồng chứa chan bao niềm hạnh phúc, mãn nguyện. “Vài giây sau, tơi đuổi kịp”, trái tim băng giá sắp được mẹ sưởi ấm đã “trỗi dậy” sâu một giấc ngủ dài. Bao nhiêu mệt nhọc, nỗi giận hờn, đã tan biến. Trong phút chốc đã mở ra một thế giới tình cảm “mơn man” khắp người cậu bé. Trước đây, nước mắt của cậu bé đã từng “chan hịa” bởi sự đau khổ, tủi nhục. Và giờ đây, những giọt nước mặt ấy vẫn tuơn nhưng lại vì một niềm sung sướng bất tận. Đĩ là dịng nước mắt nhân lên vì niềm vui, nở bừng ánh sáng hạnh phúc tỏa rực tình mẫu tử thiêng liêng, trong sáng. Chính xuất phát từ lịng thương, từ tình cảm thiêng liêng, tha thiết, khi ngồi trong lịng mẹ, cậu đã cĩ những cảm hứng rung động lịng người. Và lúc này, một hình ảnh người mẹ khác hẳn lời kể của bà cơ đã hiện lên với “gương mặt mẹ tơi vẫn tươi sáng với đơi mắt trong và nước da mịn ... làm nổi bật màu hồng của gị má” - một hình ảnh đẹp như cơ Tấm thảo hiền, hồn tồn trái ngược vời sự “cịm cõi, xơ xác như lời nĩi của bà cơ cay độc”. Bé Hồng thấy mẹ khơng cĩ gì khác xưa, “vẫn tươi đẹp như thuở cịn sung túc” - đĩ cũng là hình ảnh người mẹ lúc nào cũng tồn đọng trong tâm trí cậu bé dù những rắp tâm tanh bẩn vẫn bao quanh cậu. Được ơm ấp, được chở che và đặc biệt là được nằm gọn trong lịng mẹ, trái tim cậu đã tràn ngập tình yêu thương, trái tim băng giá đã ấm nồng: “đùi áp đùi mẹ, đầu ngả vào cánh tay mẹ ... tơi thấy những cảm giác ấm áp đã bao lâu mất đi bỗng lại mơn man khắp da thịt”. Từng cử chỉ, hành động của cậu cho ta thấy rõ sự hồi sinh bất diệt cảu tình mẫu tử. Chỉ cĩ như thế, cậu mới nhanaj thấy rõ cái hương vị thiếu thốn lâu nay: “hơi quần áo mẹ tơi và những hơi thở ở khuơn miệng xinh xắn, nhai trầu phả vào lúc thơm tho lạ thường”. Lúc này, ắt hẳn cái ý nghĩ vẫn luơn thống qua đầu cậu bé như một cơn giĩ thoảng qua: “phải chăng, trên đời này khơng cịn phút giây nào hạnh phúc hơn nữa?”. Thật vậy, câu hỏi nghe ngây thơ nhưng cũng xĩt xa, thương cảm biết chừng nào! Cĩ lẽ, phải bắt nguồn từ tình yêu thương mẹ tha thiết, tốt lên một thứu ánh sáng diệu kì mới giúp cậu cảm nhận được cái hương vị mất đi bấy lâu, giờ mới cĩ dịp bộc lộ. Thật đẹp làm sao cái giây phút hạnh phúc của một đứa trẻ lâu nay khao khát tình mẹ và giờ đây đã thỏa được ước nguyện: “pahir bé lại và lăn vào lịng một người mẹ, áp mặt vào bầu sữa nĩng cảu người mẹ, để mẹ vuốt ve từ trán tới cằm và gãi rơm ở sống lưng cho mới thấy mẹ cĩ một êm dịu vơ cùng”. Thật vậy, bao trùm lên tâm trí cậu bé là một nỗi vui sướng khơn xiết. Phải thương nhớ mẹ, yêu quý mẹ, thèm khát được gần mẹ đến chừng nào thì bé Hồng mới cảm thấy sung sướng tột đỉnh khi được ơm ấp trong vịng tay êm dịu của mẹ sau bao ngày trắc trở xa cách. Cĩ lẽ, bàn tay người mẹ như sức mạnh thiêng liêng, che chở, ơm ấp con đã tạo thành những “chuỗi giai thoại”. Và chắc cĩ lẽ vậy nên “từ ngã tư đầu trường cho đến về nhà, tơi khơng cịn nhớ mẹ tơi đã hỏi những câu gì và tơi đã trả lời mẹ tơi những câu gì nữa!”. Và thế rồi, những câu nĩi xúc xiểm, cay độc của bà cơ như muốn “gieo rắc vào đầu tơi để tơi ruồng rẫy, khinh miệt mẹ” cũng chỉ là “ù ù bên tai hay thống qua như một cơn giĩ”. Cĩ lẽ, chính vì sợi dây tình mẫu tử gắn kết thiêng liêng hay tình yêu nồng nàn của bé với mẹ mà giúp bé cĩ thể vượt qua từng hố sâu tanh bẩn, nâng đỡ bé thốt khỏi những cái cảnh sống “trườn” qua một cuộc đời bất hạnh với một trái tim khao khát tình mẹ. Dường như, thứ tình cảm thiêng liêng, ấm nồng đĩ sẽ mãi “khơng bao giờ vơi” trong trái tim của những con người bất tử. Và rồi, mọi chơng gai hay những câu nĩi đáng “nguyền rủa” kia sẽ mãi khơng bao giờ bám lên sợi dây “trơn tuột” kia, chứa chan bao niềm tha thiết. Qua đấy, ta mới bất chợt hiểu rằng: tình yêu thương mẹ là nét nổi bật trong tâm hồn ta - những con người mang một trái tim thiên thần. Và bé Hồng cũng vậy, tình cảm thiêng liêng, sâu nặng đã giúp bé cĩ những cách nhìn xác thực hơn về con người và cuộc đời “hỗn mang”. Cho dù cảnh ngộ cĩ éo le đến mấy, thứ tình cảm thiêng liêng được gọi với cái tên giản dị - mẫu tử ấy sẽ khơng bao giờ nhạt phai trong tâm trí những con người mang tâm hồn của một tình yêu đích thực. Mỗi dịng văn, câu chữ của tác giả đã “lơi” bối cảnh qua cách kể giản dị, giàu sức sống, thấm dẫm tình người - khác hồn tồn với “Mợ Du” hay “Huệ Chi trước lễ cưới”. Kết cục của nĩ hồn tồn bi thảm, như một sự giải thốt khiến người đọc phải sửng sốt, đau đớn tột cùng. Mặc dù vẫn là những cảm giác êm đềm về mẹ nhưng “Trong lịng mẹ” lại mang một triết li nhân sinh sâu sắc về mẹ, một kết cục tốt đẹp “mẹ con đồn viên trong một niềm vui tột cùng”. Dường như, đây là sự bồi đắp cho tâm hồn thánh thiện của một đứa con hiếu thảo, khao khát tình mẹ bây lâu. Tĩm lại, chỉ với những dịng văn giản dị mà thấm đẫm tình người, Nguyên Hồng đã chứng mình cho ta thấy rõ: “Tình mẫu tử là mạch nguồn tình cảm khơng bao giờ vơi trong tâm hồn mỗi con người”. Khi bài ca về tình mẫu tử cất lên từ tận đáy lịng thì tình cảm ấy sẽ cho ta cái cảm giác thế nào là thứ tình cảm thực sự trong trái tim thực sự. Dẫu rằng, thời gian cĩ ngừng trơi, Trái Đất cĩ đổi vịng quay đi chăng nữa, nhưng trong trái tim mỗi con người vẫn dấy lên một thứ tình cảm bất diệt - tình mẫu tử. Thật vậy, “Trong lịng mẹ” của Nguyên Hồng sẽ mãi là một bài ca bất diệt ẩn hằn một sức mạnh kì diệu, đem ánh sáng tình yêu đến nhân loại để rồi, bất chợt, mỗi con người chúng ta phải suy ngẫm: “Mẹ cĩ nghĩa là tất cả Là cho đi khơng địi lại bao giờ” Đề bài 2.1: Cĩ người khơng hiểu: Vì sao Nam Cao lại để cho lão Hạc tìm dến cái chết trong khi vẫn cịn nguyên nguồn sống, cịn vườn, cịn tiền. Họ lại càng khơng hiểu vì sao: một người tốt đẹp như thế lại phải tự tử bằng cách ăn bả chĩ - một cái chết đau đớn và dữ dội? Hãy viết một bài văn nhằm giải đáp những thắc mắc trên để mọi người cùng thấy: Đĩ là những sáng tạo nghệ thuật sâu sắc cĩ khả năng giúp người ta nhận rõ thực chất đời sống và con người nơng dân trước Cách Mạng. Hoặc Đề bài 2.2: Tĩm tắt văn bản “Lão Hạc” (SGK Ngữ văn 8 - tập 1) và trình bày suy nghĩ của em về cái chết đau đớn, dữ dội của nhân vật lão Hạc trong truyện ngắn cùng tên của nhà văn Nam Cao. Dàn ý bài chi tiết (bài viết bên dưới) Mở bài: - Đánh giá phong cách viết văn và cách nhìn đúng đắn về người nơng dân của nhà văn Nam Cao trong trào lưu hiện thực phê phán 1930 - 1945. - Dẫn dắt vấn đề (cĩ hai vấn đề phải dẫn dắt): 1, Vì sao Nam Cao lại để cho lão Hạc tìm đến cái chết trong khi vẫn cịn nguyên nguồn sống, cịn vườn, cịn tiền ... Vì sao một người tốt đẹp như như lão Hạc lại phải tự tử bằng cách ăn bả chĩ? 2, Những sáng tạo nghệ thuật của Nam Cao cĩ khả năng giúp người ta nhận rõ thực chất đời sống và con người nơng dân trước Cách mạng tháng Tám (trong thời thực dân nửa phong kiến). Lưu ý: - Ở một số đề thi HSG, các ý cần học sinh chứng minh sẽ khơng được in đâm hay in nghiêng hoặc tạo ra một kí hiệu nào đĩ mà bắt học sinh phải tự nhận biết để chứng minh. Vì thế, khi đọc đề cần phải gạch chân trước những từ ngữ/ý quan trong để khi làm bài khơng thừa hoặc thiếu luận điểm. Trên đĩ là một trong những ví dụ cụ thể, nếu khơng được in đậm thì đa số sẽ khơng thế xác định được vấn đề phải chứng minh (chủ yếu là vấn đề 2). - Ở đề bài 1.2 thì khơng cĩ vấn đề nghị luận nhưng HS cũng phải nếu khái quát về nhân vật lão Hạc để làm tiền đề cho phần thân bài. Thân bài: Chứng minh ý kiến trên là đúng thơng qua nhân vật lão Hạc trong tác phẩm “Lão Hạc” của Nam Cao. - Luận điểm 1: Đoạn chuyển. + Đối với cách làm của HSG thì nên trích dẫn một câu nĩi nào đĩ để chứng minh vấn đề [vd: “Đối với tơi, văn chương khơng phải là sự thốt ly hay sự quên lãng. Văn chương là một thứ khí giới thanh cao và đắc lực. Nĩ cĩ thể thay đổi cả một thế giới giả dối và tàn ác, ca ngợi sự cơng bình, làm người gần người hơn” (Thạch Lam)]. Lưu ý: Khi trích dẫn câu nĩi thì phải cho vào ngoặc kép, cuối câu nĩi là tên của người nĩi/viết (nếu đã giới thiệu rồi thì khơng cần). Khi trích dẫn cần phải đầy đủ, chính xác, nếu khơng nhớ rõ câu nĩi thì nên phác họa lại nội dung câu nĩi, khơng nên trích sai câu nĩi. Sau khi đã trích thì nên giải thích ý nghĩa câu nĩi để làm sao liên hệ được đến với vấn đề cảu tác phẩm (trong trường hợp câu nĩi của Thạch Lam và đối với đề bài này thì câu nĩi chỉ cĩ tác dụng với vấn đề 1 - cái chết của lão Hạc). + Tĩm tắt hay nĩi cách khác là kể lại một cách thật ngắn gọn hồn cảnh của Lão Hạc (vật chất và tinh thần) để làm sao tốt lên sự vất vả, khổ cực của lão qua đĩ đánh giá trước nghệ thuật miêu tả tâm lí hay phong cách viết văn của nhà văn Nam Cao. - Luận điểm 2: Hồn cảnh thiếu thốn về vật chất lẫn tinh thần của lão Hạc. + Vật chất: một căn nhà cũ nát, một sào vườn cằn cỗi, một con chĩ Vàng. + Tinh thần: vợ mất sớm, sống cũng với đứa con trai ... con trai bỏ đi đồn điền cao su, lão cơ đơn một mình với cậu Vàng (chĩ Vàng). + Hồn cảnh cùng cực sau khi lão ốm và đứa con trai ra đi: 1, Gia sản chỉ cĩ một sào vườn nhỏ đủ để cho lão bịn mĩt và một con chĩ mà lão thường gọi là Cậu Vàng. 2, Sức khỏe của lão càng ngày càng đuối, bão đến cuốn đi vụ hoa màu trên mảnh vườn lão, các việc nhỏ nhẹ trong làng thì bị cướp mất. 3, Do hồn cảnh ép buộc, lão đành phải bán cậu Vàng với giá 5đ. 4, Ép mình phải ăn củ chuối, củ sung; làng xĩm giúp đỡ lão thì lão từ chối như một kẻ hách dịch, từ chối lời mời của ơng Giáo. => Lão đành sống một mình trong sự cơ đơn và giằng buộc của bản thân và rồi lão tìm đến cái chết. Lưu ý: Khi làm luận điểm này cần phải đan xen những khĩ khăn về mọi mặt của lão Hạc theo một trình tự nhất định để làm nổi bật lên sự khĩ khăn của lão và giới thiệu lão chết. - Luận điểm 3: Cái chết đau đớn của lão Hạc, ơng Giáo hiểu ra và hé lộ phẩm chất tốt đẹp của lão Hạc => Giải thích vấn đề 1. Lưu ý: Trước khi sang luận điểm 3 cần phải cĩ một đoạn chuyển từ luận điểm này sang luận điểm khác: nên đánh giá hồn cảnh của lão Hạc. + Sau khi bán cậu Vàng, lão đã đến tìm đến Binh tư xin một ít bả chĩ. Sau khi nghe Binh tư kể lại, ngay cả ơng Giáo cũng nghi ngờ lão Hạc. + Cái chết đau đớn, dữ dội của lão Hạc: “lão đang vật vã ... Cái chết thật dữ dội!”. Đến lúc này, ơng Giáo và Binh Tư mới hiểu ra. + Phẩm chất của lão Hạc: yêu thương con (muốn chết để giữ lại tiền cho con), giàu lịng tự trọng (khơng muốn liên lụy đến hàng xĩm), muốn giữ lại những phẩm chất tốt đẹp của mình, khơng muốn bị cái xấu xâm phạm đến. + Chứng minh luận điểm: 1, “Vì sao lão hạc phải tìm đến cái chết trong khi vẫn cịn nguyên nguồn sống, cịn tiền, cịn vườn”: tuy lão vẫn cịn tiền, cịn vườn nhưng lão ăn mãi sẽ hết, khi con trai lão về sẽ khơng cĩ vốn làm ăn. Vì thương con, nên lão đành chết để giữ lại tiền cho con. 2, “Vì sao lão phải chết bằng cách ăn bả chĩ”: cĩ lẽ, lão muốn chứng minh mình khơng hề theo gĩt Binh Tư làm bậy. Mặt khác, cái chết của lão như lời tạ tội với chĩ Vàng, hình ảnh cái chết của lão cũng như hồn cảnh chết của chĩ Vàng. 3, Khẳng định: “Đĩ là những sáng tạo nghệ thuật sâu sắc của Nam Cao cĩ khả năng giúp người ta nhận
File đính kèm:
- Nhung bai viet hay danh cho HSG lop 8.doc