Nỗi Thương Mình Nguyễn Du – Truyện Kiều

doc15 trang | Chia sẻ: dethi | Lượt xem: 1131 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Nỗi Thương Mình Nguyễn Du – Truyện Kiều, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Nỗi Thương MìnhNguyễn Du – Truyện KiềuNguyễn Du (1765 – 1820) quê ở Thăng Long, tên chữ Tố Như, hiệu là Thanh Hiên. Ông sinh ra trong một gia đình quý tộc và sống trong xã hội phong kiến – một xã hội thối nát, suy thoái. Chính vì thế mà ông có dịp hiểu biết về lối sống phong lưu xa hoa của giới quý tộc phong kiến và có điều kiện dùi mài kinh sử. Ông được tiếp thu truyền thống học tập và sáng tác của cả gia đình, tạo cho ông vốn học vấn Nho học uyên thâm, lối sống tao nhã, khiến ông hiễu rõ về tầng lớp phong kiến . ‘’Truyện Kiều’’ còn có tên Đoạn Trường Tân Thanh là một trong những sáng tác chính của ông. Bên cạnh đó ‘’Nỗi Thương Mình’’ là một đoạn trích thể hiện khá rõ tài năng nghệ thuật độc đáo, cái nhìn vượt thời đại và đặc biệt tinh thần nhân đạo mới mẻ của đại thi hào nguyễn Du. Đoạn trích chỉ vỏn vẹn hai mươi câu, từ câu 1229 đến câu 1248, cho thấy tâm trạng đau đớn, tủi nhục, nỗi cô đơn, thương thân trách phận và ý thức sâu sắc về thân phận bất hạnh của Thúy Kiều ở chốn lầu xanh.Từ lúc gia đình gặp biến cố, phải bán mình chuộc cha, trao duyên lại cho em là Thúy Vân, Kiều đã trải qua 15 năm lưu lạc, trong 15 năm ấy, Kiều gặp phải bao sự lọc lừa nhưng lần Thúy Kiều bị lừa đau đớn nhất có lẽ là lần nàng bị Mã Giám Sinh lừa bán đến lầu xanh. Nó là bước ngoặt bẻ ngang cuộc đời Thúy Kiều rẽ sang một hướng khác. Rơi vào tay Tú Bà, Kiều rút dao định tự tử nhưng không thành. Ở lầu Ngưng Bích, Kiều lại mắc bẫy Sở Khanh, bị Tú Bà đánh đập tơi bời. Tiếp đó là những tháng ngày ê chề nhục nhã của nàng trong vai trò kĩ nữ - gái làng chơi, đem tấm thân trong ngọc trắng ngà của mình mua vui cho những kẻ lắm tiền háo sắc. Những ngày Thúy Kiều ở chốn lầu xanh là những nàng vô cùng buồn tủi, tâm trạng rối bời như tơ vò nghĩ về thân phận, sự tủi nhục của kiếp hồng nhan.Đoạn trích có một kết cấu khá logic với diễn biến tâm trạng và trớ trêu của cuộc đòi đầy bất hạnh khi nghe những lời độc thoại nội tâm dầy đau đớn : “Khi tỉnh rượu …xuân là gì?” Đó cũng là thời điểm mở đầu cho những chuỗi tâm sự nối kết, ngỗn ngang. Kiều nghĩ đến thân phận mình để rồi “mình lại thương mình xót xa” Kiều xót xa cho chính bản thân mình. Với nàng, hiện tại như một giấc mơ cay đắng khi nàng sánh với quá khứ.Mở đầu đoạn trích Nỗi Thương Mình là tâm trạng đau buồn, tủi hổ đến ê chề của Thúy Kiều phải nếm trải trong chốn lầu xanh của mụ Tú Bà:“Biết bao bướm lả ong lơi,Cuộc say đầy tháng trận cười suốt đêm.Dập dìu lá gió cành chimSớm đưa Tống Ngọc tối tìm Trường Khanh”Bốn câu đầu của đoạn trích cho ta thấy rõ hình ảnh lối sống xô bồ, nhơ nhớp và thân phận bẽ bàng của người kĩ nữ ở chốn lầu xanh. Nguyễn Du đã miêu tả thật sống động bức tranh sinh hoạt ở chốn lầu xanh bằng bút pháp ước lệ tượng trưng. Trong chốn lầu xanh ấy Kiều phải tiếp khách mua vui cho “biết bao” người mà nàng không thể nào nhớ đươc hay là đếm được, bởi lẻ một điều rằng hằng ngày Kiêu tiếp khách làng chơi triền miên “suốt đêm, sớm đưa, tối tìm” những từ ngữ ấy đã cho ta thấy đươc sự nhộn nhịp của chốn lầu xanh , nơi mà Tú Bà ăn nên làm ra. Bằng những hình ảnh ẩn dụ : bướm lả ong lơi, cuộc say đầy tháng, trận cười suốt đêm” và các điển tích điển cố: “lá gió cành chim”, “Tống Ngọc, Trường Khanh” – chỉ chung cho loại khách làng chơi phong lưu ND cho thấy tình cảnh của TK tuy sống trong cảnh lầu xanh tưởng như thanh tao, phong nhã nhưng thực chất đó chỉ là giả tạo, hằng ngày K phải làm công việc nhơ nhuốc, tiếp đủ các loại khách đến mua vui. Điều này cho ta thấy rõ hơn về nỗi bất hạnh và tình cảnh trớ trêu của TK. Bút pháp ước lệ giúp ND không tránh né số phận thực tế của TK mà vẫn giữ được chân dung cao đẹp của nàng. Qua đó ta thấy được thái độ trân trọng, cảm trhông của tác giả đối với nhân vật.ND đã tái hiện cái hoàn cảnh của Thúy Kiều bằng những sự đối lập nghiệt ngã: một bên là nước mắt Thúy Kiều – một bên là những cơn say, trận cười triền miên. Do vậy ở bốn câu thơ đầu, mặc dù chưa được miêu tả trực tiếp, người đọc vẫn thấy Kiều đang bị cuốn đi trong một cơn lốc vô hình, bị buộc vào cảnh sống nhơ nhớp nơi nhà chứa. Hiện thực nghiệt ngã mà nhân vật phải trải qua, hé mở thân phận bẽ bàng của người kỹ nữ. Nguyễn Du đã mỹ lệ hóa cho cảnh sống ấy bằng một thứ ngôn ngữ ước lệ rất tài tình: ước lệ theo thành ngữ dân gian, ước lệ theo điển tích làm cho sự hồi tưởng kiếp sống đớn đau của Kiều trở nên tao nhã hơn. Bởi vì chỉ có hồi tưởng mới diễn tả hết sức sống chân thật của nội tâm nhân vật, mới thể hiện đúng nỗi đau, mới nổi bật được phẩm giá và sự chịu đựng giày vò đáng thương của nhân vật. Đằng sau những câu thơ ấy là tấm lòng cảm thông, trân trọng mà tác giả dành cho Thúy Kiều. Bốn câu thơ đầu đã đặt ra một tình thế của tâm trạng. Ở lầu xanh có nhiều kĩ nữ, họ có thể bình thản coi việc làm của mình rất đỗi bình thường , trớ trêu thay Kiều lại có một nhân phẩm quá đỗi cao đẹp, một tâm hồn trong trắng, một bông hoa từ cảnh sống “êm đềm trướng rủ màn che” bỗng nhiên bị ném vào bùn nhơ, hai câu tiếp nói về tâm trạng của Kiều trong những ngày tủi nhục , nỗi ê chề , sự ép buộc , đày đọa mà Kiều phải chịu đựng:“Khi tỉnh rượu, lúc tàn canh Giật mình mình lại thương mình xót xa” Ở nơi lầu xanh đầy “cuộc say, trận cười” thì chỉ “khi tỉnh rượu lúc tàn canh” Kiều mới có một khoẳng khắc hiếm hoi để sống thực với chính mình và cũng là hoàn cảnh Kiều tỉnh táo nhất đối diện với con người mình. Thời gian và không gian thật vắng lặng như gợi lên nỗi niềm xót xa. Nhịp thơ có sự thay đổi giữa hai câu thơ trên từ nhịp 3/3 chuyển sang nhịp 2/4/2. Hai chữ “giật mình” kết hợp với cách ngắt nhịp ấy đã diễn tả sự biến đổi đột ngột trong tâm hồn TK. Nàng bàng hoàng đau xót trước thực tại phủ phàng và trơ trọi chỉ có một mình nàng tự xót xa, đau đớn cho chính số phận bi thương, đoạn trường của mình. Giật mình ko chỉ là hành động bên ngoài của nhân vật khi có một sự tác động đột ngột nào đó của môi trường bên ngoài. Đó là cái giật mình từ cảm xúc bên trong mà nếu ko có thì Kiều cũng giống như tất cả các kĩ nữ khác trong thanh lâu của Tú bà. Kiều giật mình vì nhận ra sự tàn phá thảm hại về thể xác và phẩm cách của mình ở chốn lầu xanh, sự cô đơn lẻ loi của mình và sự yếu đuối bất lực của mình trước bao nhiêu sự xấu xa, cạm bẫy đang bủa vây mình mà ko thể chống đỡ. Điệp từ “mình’’ lặp lại ba lần trong một câu thơ như tiếng nấc nghẹn ngào, tha thiết của TK ý thức được về phẩm giá, nhân cách, quyền sống bản thân đó cũng là ý thức cá nhân và quyền sống của con người trong lịch sử phong kiến mà ND muốn truyền tải đến người đọc.Đối với hai câu trên với nhịp thơ đầy nổi tủi nhục của Kiều thì những câu tiếp theo sau là những hồi ức dội về, hồi ức tươi sáng va đập thực tại tăm tối đọa đày:“Khi sao phong gấm rủ là Giờ sao tan tác như hoa giữa đườngMặt sao dày gió dạn sương Thân sao bướm chán ong chương bấy thân”Một cô gái khuê các, tài sắc vẹn toàn, hiền lành đoan trang hết mực. Một cô gái nho gia bây giờ trở thành một cành hoa tan tác. Sự biến chuyển nhanh chóng đế mức chính Kiều cũng phải bàng hoàng, sửng sốt. Phép đối lập như một biện pháp nghệ thuật chủ yếu toàn đoạn trích và nhất là trong hai câu này càng tăng thêm giá trị biểu cảm. Nó tạo nên sự so sánh đối lập giữa hai quãng đời, hai thời gian, hai tình cảm. Cặp từ đối lập chỉ thời điểm: “Khi sao / giờ sao” tạo nên cảm giác đột ngột của sự thay đổi trong một khoảng thời gian không mấy cách biệt. Chính vì điều này đã làm vết thương của Kiều nhức nhối, đau đớn như đào sâu thêm vào nỗi xót xa, tê tái của Kiều.Quá khứ hiện về đối lập với thực tại một cách khốc liệt, Kiều hồi tưởng lại những tháng năm “êm đềm trướng rũ màn che” thì lập tức thực tại phủ phàng lại hiện lên rõ nét hơn gấp bội, từ “phong gấm” diễn tả một sự bình yên, êm đềm trong quá khứ đối lập gay gắt với từ “tan tác” trong câu thơ nói về hiện tại như cái thực trạng phũ phàng bao trùm vùi chôn quá khứ êm đẹp. Phép so sánh “như hoa giữa đường” càng làm nổi bật sự đối lập tuyệt đối giữa quá khứ và thực tại, giữa cá nhân và hoàn cảnh. Cụm từ “bướm chán ong chường” và “dày gió dạn sương” là nét sáng tạo về cách dùng từ của Nguyễn Du, nhấn mạnh có ý so sánh theo mức độ tăng tiến cho ta thấy sự vùi dập, chà đạp mà Kiều phải gánh chịu. Các câu hỏi tu từ ở đây đc ND sử dụng nhằm làm rõ hơn sự đau đớn, ê chề của Kiều trước thực tại phủ phàng, tàn nhẫn. Hai câu thơi day dứt một tiếng thở dài tuyệt vong của một cô gái vốn tài sắc hơn người, khát khao hạnh phúc nhưng bậy giờ đã chán ngán tất cả:“Mặc người mưa Sở mây Tần Những mình nào biết có xuân là gì?”Sống trong cảnh lầu xanh suốt ngày phải mua vui cho người khác hành hạ bản thân mình, lặp đi lặp lại hằng ngày ai cũng sẽ thấy chán chường muốn buôn tất cả và Kiều cũng vậy. Sự đối lập giữa người – khách làng chơi (số nhìu) với chính mình – Kiều (số ít) như thể hiện tột cùng nỗi cô đơn của nàng. Từ xuân ở đây ý chỉ niềm vui được hưởng hạnh phúc lứa đôi nhưng với TK sống làm vợ khắp người ta thì làm gì còn có mùa xuân, chỉ thấy trong đó là sự nhục nhã, lẻ loi, trơ trọi và cô đơn của cuộc đời người kỉ nữ mua vui. Từ mặc ở đây lại chỉ sự bất lực, mặc cho mọi thứ muốn tới đâu thì tới, dằn vặt nặng nề đay nghiến của TK nhưng không làm sao khác được.“Đòi phen gió tựa hoa kềNửa rèm tuyết ngậm bốn bề trăng thâuCảnh nào cảnh chẳng đeo sầuNgười buồn cảnh có vui đâu bao giờĐòi phen nét vẽ câu thơCung cầm trong nguyệt nước cờ dưới hoaVui là vui gượng kẻo làAi tri âm đó, mặn mà với ai.”Bức tranh thiên nhiên tươi đẹp hiện lên, có đủ cả: phong – hoa – tuyết – nguyệt, cảnh đẹp bốn mùa hội tụ vào nơi đây, gió xuân vi vu thổi, hoa hạ đua nhau khoe sắc ngát hương, trăng thu sáng vằng vặc, tuyết đông phủ kín cả lầu tất cả đều rất thực, rất sinh động như vẽ nên bức tranh đầy màu sắc, âm thanh của lầu xanh và trong đó có đủ những thú vui của con người: cầm – kì – thi – họa càng tô điểm cho bức tranh ấy thêm phần nhộn nhịp, sống động hơn bao giờ hết. Nhưng nêu lên những cảnh thiên nhiên đẹp đẽ, tao nhã, nên thơ ấy lại như một sự giễu cợt, mỉa mai, chua chát. Vì dù ngụy trang khéo đến mấy, cũng không thể che đậy nổi cái bản chất nhơ nhớp, bẩn thỉu bên trong của chốn “buôn thịt bán người”. Đoạn thơ vì thế đồng thời hướng vào tâm trạng Kiều: Kiều luôn phải tách mình thàn hai nửa: một con người bề ngoài vui gượng, giả tạo và một con người thực, sống để xót xa mỗi lúc canh tàn.Cảnh không thể vui vì lòng người nặng trĩu nỗi tê tái.. Khi gió tựa hoa kề, khi cung cầm thi họa, lúc nào nỗi đau cũng dâng đầy và nghẹn ứ trong lòng nàng. Ý thức về nhân phẩm một khi trỗi dậy là lại bị giày xéo, khiến nàng không nguôi bẽ bàng, nhục nhã về thân phận. Hai từ “đòi phen” được lặp lại trong tám câu thơ càng thể hiện rõ hơn đó là một nỗi đau thường trực, chưa lúc nào thôi dằn vặt Kiều. Nỗi sầu của Kiều lan tỏa sang cảnh vật :“Cảnh nào cảnh chẳng đeo sầuNgười buồn cảnh có vui đâu bao giờ”Bằng sự thông cảm lạ lung, và bằng tài năng kì diệu, ND đã viết nên hai câu thơ hay nhất giữa ngoại cảnh và tâm cảnh, giữa cảnh và tình. Từ một trường hợp cụ thể, thơ ND đã vươn tới tầm phổ quát, trở thành chân lí của mọi thời. Có thể nói hai câu thơ là đỉnh điểm của đoạn trích vì nó gột tả được sâu sắc hơn bao giờ hết nội tâm của nhân vật từ đó lan tỏa sang cảnh vật một cách thật tự nhiên và hợp lí. Nỗi buồn của TK cứ dâng lên, như sóng cồn triền miên không bao giờ dứt, nó cứ khuấy động bên trong sâu thẳm con người Kiều để rồi đến một lúc nào đó, tức nước vỡ bờ, nó dâng lên cuồn cuộn đánh động vào nỗi long, cảm xúc của TK, khiến cho mọi vật qua cái nhìn của nàng đề trở nên u buồn, tăm tối, nhuộm màu tang thương.“Vui là vui gượng kẻo làAi tri âm đó mặn mà với ai?”Hai câu thơ cuối là nỗi lòng của TK được ND thể hiện một cách tinh tế, độc đáo mà tâm sự này, tâm trạng này, Kiều của Thanh Tâm tài nhân không hề có được. Từ “vui gượng” nói lên tất cả sự lạc lõng, cô độc cũng là sự mâu thuẫn, bế tắc không lối thoát của Kiều trước hoàn cảnh. Sống trong cảnh nhơ nhớp, phải tiếp khách làng chơi, trải qua những cơn say, trận cười quanh năm suốt tháng, phải lả lơi… là điều bất đắc dĩ, Kiều không bao giờ muốn thậm chí không bao giờ có thể tưởng tượng được cuộc đời mình lại bi kịch như thế. Giữa chốn lầu xanh mà đồng tiền lên ngôi, có bao kẻ đến rồi đi, cái còn lại sau cùng với Kiều chỉ là sự rã rời, đau đớn cả về thể xác và tâm hồn thì làm gì có ai là tri kỉ, có ai để “mặn mà” nhưng trong sâu thẳm cõi lòng, Kiều vẫn luôn mong ngóng một tấm lòng, một người hiểu mình. Một lần nữa ngôn ngữ nửa trực tiếp lại khiến cho câu thơ có những lớp nghĩa sâu sắc kết hợp câu hỏi tu từ đầy sót xa cay đắng cho thấy phẩm chất tốt đẹp của TK giàu long tự trọng coi trọng phẩm giá và muốn sống một cuộc sống bình yên, trong sạch.Đoạn trích Nỗi Thương Mình thể hiện khá hoàn chỉnh số phận, tính cách của TK. Thể hiện tập trung tư tưỡng nhân văn của tác giả: cảm thương trước bi kịch của K, khẳng định nhân cách đẹp đẹ của nàng và khẳng định sự ý thức về nhân phẩm và sự ý thức cá nhân.Thể hiện nỗi thương mình của TK, ND cũng thể hiện được nghệ thuật miêu tả nội tâm nhân vật với ngôn ngữ nửa trực tiếp, lời tác giả và nhân vật như hòa vào nhau tạo nên sự đồng cảm giữa tác giả-nhân vật- người đọc.

Thử thách lớn nhất và cũng là bi đát nhất của Thúy Kiều chính là hoàncảnh mà nàng đã bị đẩy vào: làm kĩ nữ chốn lầu xanh. Nói gì đến giữ gìntrinh tiết với Kim Trọng, trong hoàn cảnh ấy, ngay cái nhân cách tốithiểu của người đàn bà trong xã hội cũ Kiều làm thế nào để giữ cho khỏibị mai một được? Làm thế nào để viết về thực tế ấy – thực tế của cáicảnh “sống làm vợ khắp người ta” mà vẫn thể hiện được nhân cách củanhân vật, vẫn bộc lộ được thái độ trân trọng, sự cảm thông, vẫn nói lênđược sự đau khổ, thương thân phận mình của nhân vật? Tài năng nghệthuật độc đáo, cái nhìn vượt thời đại và đặc biệt tinh thần nhân đạomới mẻ của Nguyễn Du đã thể hiện trọn vẹn trong đoạn trích “Nỗi thươngmình”.“Rường cao rút ngược dây oanLàm cho khốc hại chẳng qua vì tiền”Từ lúc gia đình gặp biến cố, phải bán mình chuộc cha, trao duyên lạicho em là Thúy Vân, Kiều đã trải qua 15 năm lưu lạc, trong 15 năm ấy,Kiều gặp phải bao sự lọc lừa nhưng lần Thúy Kiều bị lừa đau đớn nhất cólẽ là lần nàng bị Mã Giám Sinh lừa bán đến lầu xanh. Nó là bước ngoặtbẻ ngang cuộc đời Thúy Kiều rẽ sang một hướng khác. Rơi vào tay Tú Bà,Kiều rút dao định tự tử nhưng không thành. Ở lầu Ngưng Bích, Kiều lạimắc bẫy Sở Khanh, bị Tú Bà đánh đập tơi bời, đến mức phải rên lên:“Thân lươn bao quản lấm đầu, tấm lòng trinh bạch từ sau xin chừa”. Tiếpđó là những tháng ngày ê chề nhục nhã của nàng trong vai trò kĩ nữ -gái làng chơi, đem tấm thân trong ngọc trắng ngà của mình mua vui chonhững kẻ lắm tiền háo sắc. Nguyễn Du đã ghi lại tâm trạng của Kiềutrong thời gian ấy.Có một điểm cần chú ý ngay từ đầu là trong nguyên tác của Thanh Tâm tàinhân thì trọng tâm của đoạn này: một mặt là bài ca kể về thân phận ThúyKiều từ khi gia biến đến khi bị Sở Khanh lừa và phải đồng ý tiếp khách,mặt khác tập trung vào lời dạy của Tú Bà về nghề kĩ nữ. Đến Nguyễn Du,cách xử lí nghệ thuật đã có sự thay đổi hoàn toàn. Gốc rễ của cách xửlí nghệ thuật độc đáo ấy là cách nhìn mới mẻ và chủ nghĩa nhân đạo mớimẻ của nhà thơ. Từ câu thứ 5 của đoạn trích, trước đây được đặt tên là “Những nỗi lòngtê tái”. Trong sách giáo khoa mới, “Nỗi thương mình” chỉ vẻn vẹn 20 câunhưng đã nói lên tất cả nỗi tê tái của Kiều nhưng quan trọng hơn làđoạn trích đã thể hiện một tiếng nói nhân văn sâu sắc và tiến bộ: ýthức về thân phận, phẩm giá của nàng Kiều – ý thức thương thân, xótthân lần đầu tiên xuất hiện trong văn học trung đại Việt Nam.Có một bài toán “nan giải” đặt ra với Nguyễn Du: tác giả muốn tố cáomột cách sâu sắc nơi đã vùi dập Kiều, những thân phận như Kiều. Đó cũnglà một hình ảnh thu nhỏ của xã hội phong kiến mà Kiều đang sống với tấtcả sự nhơ nhớp, mục ruỗng của nó. Cái khó là: nói về cảnh lầu xanhnhưng làm sao cho sự miêu tả hiện thực đó không gây ra phản cảm với độcgiả, không hạ thấp nhân vật, thể hiện được nhân cách, phẩm giá của nhânvật trong sự cảm thông của nhà thơ. Nguyễn Du đã thành công với nhữngxử lí nghệ thuật độc đáo của mình. Đoạn trích có một kết cấu lôgíc với diễn biến tâm trạng: đoạn đầu giớithiệu tình cảnh trớ trêu của Kiều, “khi tỉnh rượu… nào biết có xuân làgì” đi sâu vào tâm tình, nỗi niềm của Kiều trong cảnh sống ấy, và đoạncuối tả cảnh để cực tả tâm trạng cô đơn, ý thức về thân phận, phẩm giácủa Kiều.Bốn câu thơ đầu của đoạn thơ là cả một hiện thực tàn nhẫn mà Kiều phải chịu đựng: chốn lầu xanh với những đặc trưng của nó:“Biết bao bướm lả ong lơiCuộc say đầy tháng trận cười suốt đêmDập dìu lá gió cành chimSớm đưa Tống Ngọc, tối tìm Trường Khanh”.Bút pháp ước lệ tượng trưng được sử dụng nhuần nhuyễn đến mức trở thànhmột công cụ nghệ thuật đắc lực. Bởi vì trên thực tế, nếu phải gọi sựthật bằng đúng cái tên của nó thì Kiều trong đoạn trích này là một côgái lầu xanh. Một loạt từ ngữ dẫu là ước lệ vẫn đủ để thông báo về tìnhcảnh và thân phận của Kiều – mặc dù bốn câu đầu này, nhân vật không hềđược miêu tả trực tiếp: “bướm lả ong lơi, cuộc say đầy tháng, trận cườisuốt đêm” và các điển tích điển cố: “lá gió cành chim”, “Tống Ngọc,Trường Khanh” – chỉ chung cho loại khách làng chơi phong lưu. Nguyễn Duđã tìm được một góc nhìn và cách xử lí nghệ thuật đặc biệt: viết vềcảnh lầu xanh nhưng lại dùng những từ và hình ảnh rất nhã. Cách xử línghệ thuật này giúp tác giả vượt qua một vấn đề nan giải, một mặt vẫntả thực, không né tránh hiện thực và cảnh sống thực tế của nhân vậtchính, mặt khác vẫn giữ được chân dung cao đẹp của nhân vật chính ThúyKiều, qua đó thể hiện thái độ cảm thông, trân trọng mà tác giả dành chonhân vật. Thái độ này là nhất quán trong tác phẩm. Quan sát kĩ hơn những chi tiết nghệ thuật mà Nguyễn Du cố ý bày ra sẽnhận thấy sự mâu thuẫn ẩn chứa bên trong cảnh tượng. Những từ “đầytháng, suốt đêm” là những từ chỉ số nhiều, cho thấy sự nhộn nhịp củalầu xanh, nơi mà Tú Bà “ăn nên làm ra”, lầu xanh như một chốn đang vàodịp “được mùa”, “đắt khách”. Cái xấu như đang ra sức bòn rút tất cảnhững giá trị của con người. Lầu xanh trở thành nơi chôn vùi không biếtbao nhiêu số phận như Kiều. Cảnh lầu xanh thực chất cũng là một phầncủa bức tranh XHPK Trung Quốc thời Minh – Thanh thu nhỏ, cả thời đại màNguyễn Du sống, cuối thế kỉ 18 đầu thế kỉ 19. Xã hội ấy cũng đã đượcnói đến qua những tác phẩm cùng thời: Phủ Chúa Trịnh, Hoàng Lê nhấtthống chí, Cung oán ngâm… Phép đối xứng kết hợp với nghệ thuật tách từ, đảo từ là một sáng tạocủa Nguyễn Du. Đối xứng nhỏ nhất được thiết lập bằng cách tách hai từghép để tạo thành một cụm từ mới, có tác dụng tăng thêm, cụ thể hóa hơnnét nghĩa: tại lầu xanh, bọn khách làng chơi ra vào dập dìu, nhộn nhịp.Tiếp theo là đối xứng trong từng câu thơ: Cuộc say đầy tháng/ trận cườisuốt đêm; Sớm đưa Tống Ngọc/ tối tìm Trường Khanh… kết hợp với những từchỉ số nhiều: đầy tháng, suốt đêm diễn tả cái xô bồ, gấp gáp của mộtcuộc sống ăn chơi, nhốn nháo, dung tục. Thường thì người ta dùng từ“trận” để nói về trận đánh, trận mắng chửi chứ không ai nói là “trậncười”. Bản thân cách dùng từ này đã đủ cho thấy nỗi ê chề, sự ép buộc,đày đọa mà Kiều phải chịu đựng.Nguyễn Du đã tái hiện cái hoàn cảnh của Thúy Kiều bằng những sự đối lậpnghiệt ngã: một bên là nước mắt Thúy Kiều – một bên là những cơn say,trận cười triền miên. Do vậy ở bốn câu thơ đầu, mặc dù chưa được miêutả trực tiếp, người đọc vẫn thấy Kiều đang bị cuốn đi trong một cơn lốcvô hình, bị buộc vào cảnh sống nhơ nhớp nơi nhà chứa. Hiện thực nghiệtngã mà nhân vật phải trải qua, hé mở thân phận bẽ bàng của người kỹ nữ.Nguyễn Du đã “bọc lụa” cho cảnh sống ấy bằng một thứ ngôn ngữ ước lệrất tài tình: ước lệ theo thành ngữ dân gian, ước lệ theo điển tích làmcho sự hồi tưởng kiếp sống đớn đau của Kiều trở nên tao nhã hơn. Bởi vìchỉ có hồi tưởng mới diễn tả hết sức sống chân thật của nội tâm nhânvật, mới thể hiện đúng nỗi đau, mới nổi bật được phẩm giá và sự chịuđựng giày vò đáng thương của nhân vật. Đằng sau những câu thơ ấy là tấmlòng cảm thông, trân trọng mà tác giả dành cho Thúy Kiều.Bốn câu thơ đầu đã đặt ra một tình thế của tâm trạng. Ở lầu xanh cónhiều người đàn bà, có thể họ an tâm, yên phận và cam chịu với nghềnghiệp để kiếm sống, trớ trêu thay Kiều lại là một nhân phẩm quá đỗicao đẹp, một tâm hồn trong trắng, một bông hoa từ cảnh sống “êm đềmtrướng rủ màn che” bỗng nhiên bị ném vào bùn nhơ, giữa cái xót.




Thử thách lớn nhất và cũng là bi đát nhất của Thúy Kiều chính là hoàn cảnh mà nàng đã bị đẩy vào: làm kĩ nữ chốn lầu xanh. Nói gì đến giữ gìn danh tiết với Kim Trọng, trong hoàn cảnh ấy, ngay cái nhân cách tối thiểu của người đàn bà trong xã hội cũ Kiều làm thế nào để giữ cho khỏi bị mai một được? Làm thế nào để viết về thực tế ấy – thực tế của cái cảnh “sống làm vợ khắp người ta” mà vẫn thể hiện được nhân cách của nhân vật, vẫn bộc lộ được thái độ trân trọng, sự cảm thông, vẫn nói lên được sự đau khổ, thương thân phận mình của nhân vật?
Tài năng nghệ thuật độc đáo, cái nhìn vượt thời đại và đặc biệt tinh thần nhân đạo mới mẻ của Nguyễn Du đã thể hiện trọn vẹn trong đoạn trích “Nỗi thương mình”.
“Rường cao rút ngược dây oanLàm cho khốc hại chẳng qua vì tiền”Từ lúc gia đình gặp biến cố, phải bán mình chuộc cha, trao duyên lại cho em là Thúy Vân, Kiều đã trải qua 15 năm lưu lạc, trong 15 năm ấy, Kiều gặp phải bao sự lọc lừa nhưng lần Thúy Kiều bị lừa đau đớn nhất có lẽ là lần nàng bị Mã Giám Sinh lừa bán đến lầu xanh. Nó là bước ngoặt bẻ ngang cuộc đời Thúy Kiều rẽ sang một hướng khác. Rơi vào tay Tú Bà, Kiều rút dao định tự tử nhưng không thành. Ở lầu Ngưng Bích, Kiều lại mắc bẫy Sở Khanh, bị Tú Bà đánh đập tơi bời, đến mức phải rên lên: “Thân lươn bao quản lấm đầu, tấm lòng trinh bạch từ sau xin chừa”. Tiếp đó là những tháng ngày ê chề nhục nhã của nàng trong vai trò kĩ nữ - gái làng chơi, đem tấm thân trong ngọc trắng ngà của mình mua vui cho những kẻ lắm tiền háo sắc. Nguyễn Du đã ghi lại tâm trạng của Kiều trong thời gian ấy.Có một điểm cần chú ý ngay từ đầu là trong nguyên tác của Thanh Tâm tài nhân thì trọng tâm của đoạn này: một mặt là bài ca kể về thân phận Thúy Kiều từ khi gia biến đến khi bị Sở Khanh lừa và phải đồng ý tiếp khách, mặt khác tập trung vào lời dạy của Tú Bà về nghề kĩ nữ. Đến Nguyễn Du, cách xử lí nghệ thuật đã có sự thay đổi hoàn toàn. Gốc rễ của cách xử lí nghệ thuật độc đáo ấy là cách nhìn mới mẻ và chủ nghĩa nhân đạo mới mẻ của nhà thơ.Từ câu thứ 5 của đoạn trích, trước đây được đặt tên là “Những nỗi lòng tê tái”. Trong sách giáo khoa mới, “Nỗi thương mình” chỉ vẻn vẹn 20 câu nhưng đã nói lên tất cả nỗi tê tái của Kiều nhưng quan trọng hơn là đoạn trích đã thể hiện một tiếng nói nhân văn sâu sắc và tiến bộ: ý thức về thân phận, phẩm giá của nàng Kiều – ý thức thương thân, xót thân lần đầu tiên xuất hiện trong văn học trung đại Việt Nam.Có một bài toán “nan giải” đặt ra với Nguyễn Du: tác giả muốn tố cáo một cách sâu sắc nơi đã vùi dập Kiều, những thân phận như Kiều. Đó cũng là một hình ảnh thu nhỏ của xã hội phong kiến mà Kiều đang sống với tất cả sự nhơ nhớp, mục ruỗng của nó. Cái khó là: nói về cảnh lầu xanh nhưng làm sao cho sự miêu tả hiện thực đó không gây ra phản cảm với độc giả, không hạ thấp nhân vật, thể hiện được nhân cách, phẩm giá của nhân vật trong sự cảm thông của nhà thơ. Nguyễn Du đã thành công với những xử lí nghệ thuật độc đáo của mình.Đoạn trích có một kết cấu lôgíc với diễn biến tâm trạng: đoạn đầu giới thiệu tình cảnh trớ trêu của Kiều, “khi tỉnh rượu… nào biết có xuân là gì” đi sâu vào tâm tình, nỗi niềm của Kiều trong cảnh sống ấy, và đoạn cuối tả cảnh để cực tả tâm trạng cô đơn, ý thức về thân phận, phẩm giá của Kiều.Bốn câu thơ đầu của đoạn thơ là cả một hiện thực tàn nhẫn mà Kiều phải chịu đựng: chốn lầu xanh với những đặc trưng của nó:“Biết bao bướm lả ong lơiCuộc say đầy tháng trận cười suốt đêmDập dìu lá gió cành chimSớm đưa Tống Ngọc, tối tìm Trường Khanh”.Bút pháp ước lệ tượng trưng được sử dụng nhuần nhuyễn đến mức trở thành một công cụ nghệ thuật đắc lực. Bởi vì trên thực tế, nếu phải gọi sự thật bằng đúng cái tên của nó thì Kiều trong đoạn trích này là một cô gái lầu xanh. Một loạt từ ngữ dẫu là ước lệ vẫn đủ để thông báo về tình cảnh và thân phận của Kiều – mặc dù bốn câu đầu này, nhân vật không hề được miêu tả trực tiếp: “bướm lả ong lơi, cuộc say đầy tháng, trận cười suốt đêm” và các điển tích điển cố: “lá gió cành chim”, “Tống Ngọc, Trường Khanh” – chỉ chung cho loại khách làng chơi phong lưu. Nguyễn Du đã tìm được một góc nhìn và cách xử lí nghệ thuật đặc biệt: viết về cảnh lầu xanh nhưng lại dùng những từ và hình ảnh rất nhã. Cách xử lí nghệ thuật này giúp tác giả vượt qua một vấn đề nan giải, một mặt vẫn tả thực, không né tránh hiện thực và cảnh sống thực tế của nhân vật chính, mặt khác vẫn giữ được chân dung cao đẹp của nhân vật chính Thúy Kiều, qua đó thể hiện thái độ cảm thông, trân trọng mà tác giả dành cho nhân vật. Thái độ này là nhất quán trong tác phẩm.Quan sát kĩ hơn những chi tiết nghệ thuật mà Nguyễn Du cố ý bày ra sẽ nhận thấy sự mâu thuẫn ẩn chứa bên trong cảnh tượng. Những từ “đầy tháng, suốt đêm” là những từ chỉ số nhiều, cho thấy sự nhộn nhịp của lầu xanh, nơi mà Tú Bà “ăn nên làm ra”, lầu xanh như một chốn đang vào dịp “

File đính kèm:

  • dockt van 10.doc