Phân tích bài thơ "đồng chí" của Chính Hữu
Bạn đang xem nội dung tài liệu Phân tích bài thơ "đồng chí" của Chính Hữu, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
PHÂN TÍCH BÀI THƠ "ĐỒNG CHÍ" CỦA CHÍNH HỮU Bài làm Chính Hữu là nhà thơ quân đội trưởng thành trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ. Ông sáng tác không nhiều và hầu như chỉ viết về người lính và chiến tranh. Với một phong cách thơ bình dị, ngôn ngữ cô đọng, hàm súc, nhưng bài thơ của Chính Hữu đã để lại trong lòng người đọc những cảm xúc lắng đọng. Trong đó, bài thơ "Đồng chí" có thể được xem là tác phẩm thành công nhất của Chính Hữu. Bài thơ đã khắc họa được chân dung của anh bộ đội cụ Hồ trong thời chống Pháp. Những câu thơ đầu giới thiệu về quê hương, xuất thân của những người lính: "Quê hương anh nước mặn, đồng chua Làng tôi nghèo, đất cày lên sỏi đá Anh với tôi, đôi người xa lạ Tự phương trời chẳng hẹn quen nhau" "Nước mặn đồng chua" gợi lên một vùng quê chim trũng ngập mặn, nơi "Đất cày lên sỏi đá" chỉ có thể là vùng trung du đồi núi bạt ngàn, nơi mà mỗi nhác cuốc đều chạm vào đá sỏi. Hai người từ hai miền quê khác, phong tục tập quán và cả khẩu âm cũng khác, nhưng giữa họ vẫn có một điểm chung tạo nên một sự đồng cảm: họ đều xuất thân trong nghèo khó, ở những miền quê lam lũ mà cái đói nghèo truyền từ đời này sang đời khác. Cũng từ đó, họ cùng đứng lên làm cách mạng, cùng cầm vũ khí chiến đấu với mong muốn có được một tương lai tốt đẹp hơn. Và, sự đồng cảm về giai cấp đã giúp những người chiến sĩ ấy không hẹn mà quen nhau. Bốn câu thơ được xây dựng theo hình thức sóng đôi đã diễn tả rất thành công sự hài hòa, đồng cảm sâu sắc giữa những người chiến sĩ. Tuy nhiên, để trở thành đồng chí, những người chiến sĩ còn phải trải qua một quá trình chiến đấu gian khổ, trải qua những giờ phút chia ngọt sẻ bùi với nhau: "Súng bên súng, đầu sát bên đầu Đêm rét chung chăn thành đôi tri kỷ" Những người chiến sĩ ấy luôn sát cánh cùng nhau vượt qua những gian khổ, mất mát của đời lính. Từ đó, họ thân trở thành một đôi tri kỷ. Những lúc dừng chân sau một cuộc hành quân dài vất vả, súng tựa súng, đôi mái đầu xanh cùng tựa trên chiếc balo. Những đêm rét trời, những người lính cùng đắp chung một chiếc chăn đơn. Đây là một chi tiết vừa thực vừa lãng mạn. Tình cảm đồng đội đồng chí giờ đây trở nên thắm thiết thân thương như tình anh em ruột thịt. Khi chiếc chăn được đắp lại cũng là lúc tình người được mở ra. Trong giờ phút ấy, tình cảm giữa người và người rực sáng như một ngọn lửa thiêng liêng sưởi ấm trái tim, tâm hồn của những người lính. họ tâm sự với nhau về niềm vui, nỗi buồn, về quê hương, gia đình và nỗi nhớ nhà da diết. Những người chiến sĩ hiểu nhau hơn, gắn bó với nhau hơn. Tình tri kỷ được nâng lên thành tình đồng đội thiêng liêng, gắn bó. Không phải ngẫu nhiên mà từ "Đồng chí" được tách riêng thành một câu thơ. Có thể nói, đây là nút thắt của bài thơ, vừa có ý nghĩa đúc kết nội dung của những dòng thơ trên, vừa gợi mở nội dung cho những câu thơ kế tiếp. "Ruộng nương anh gửi bạn thân cày Gian nhà không mặc kệ gió lung lay Giếng nước gốc đa nhớ người ra lính" Từ "mặc kệ" trong câu thơ diễn tả chân thực tính cách của những người nông dân, đó là một cách nói mộc mạc dân dã của những con người chân chất quyết tâm ra đi chiến đấu. Những người lính nhớ về quê hương được hoán dụ qua hình ảnh "giếng nước gốc đa", hay hình ảnh ấy chính là hình ảnh của những người thân đang dõi mắt trông theo người ra trận? Ở chiến trường, những người chiến sĩ vẫn nhớ về giếng nước, gốc đa, mái đình, về lũy tre xanh, về dòng sông thơ mộng, về tất cả những gì thân thương nhất của quê hương một cách da diết. Chia sẻ với nhau về nỗi nhớ quê hương, về nỗi nhớ người thân đã giúp những người lính hiểu nhau hơn, cảm thông với nhau hơn. Chính tình yêu nhớ làng quê đã thôi thúc mọi người chiến đấu và chiến thắng. Từ giã cuộc sống đói nghèo ở làng quê, những người chiến sĩ bước vào cuộc chiến đấu đầy khổ đau, gian khó: "Anh với tôi biết từng cơn ớn lạnh Sốt run người, vầng trán ướt mồ hôi Áo anh rách vai Quần tôi có vài mảnh vá Miệng cười buốt giá Chân không giày Thương nhau tay nắm lấy bàn tay" Bằng bút pháp liệt kê hình ảnh đối xứng, tác giả đã tái hiện lại những gian khổ của những người lính trong cả một giai đoạn lịch sử một cách sống động. Đoạn thơ thật đến từng chi tiết và thật cả trong cách diễn tả. Những gian khó của người chiến sĩ không dừng lại ở sự thiếu thốn "cơm không đủ no, áo không đủ mặc", mà họ còn phải chống chọi với những cơn sốt rét rừng ác liệt. Gian khó chất chồng tưởng không thể vượt qua, vậy mà chỉ cần "tay nắm lấy bàn tay", những người chiến sĩ đã có thể vượt qua tất cả. Khi nắm lấy bàn tay nhau, những người chiến sĩ đã truyền cho nhau sức mạnh, truyền cho nhau hơi ấm của tình người, tạo nên sức mạnh thiêng liêng để cùng nhau vượt qua gian khó. Tất cả đã tạo nên một chiến thắng oanh liệt, một kỳ tích cho cả dân tộc Việt Nam. Đoạn kết của bài thơ là một bức tranh rất đẹp: "Đêm nay rừng hoang sương muối Đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới Đầu súng trăng treo" Trong cái buốt giá của núi rừng Việt Bắc, những người chiến sĩ vẫn sát cánh bên nhau đón chờ một trận chiến ác liệt. Tình cảm đồng chí trở nên sáng ngời trong giờ phút những người lính đang đối mặt với hiểm nguy, khi mà thần chết đang rình rập trong những nòng súng. Giữa lúc đang đứng giữa ranh giới của sự sống và cái chết ấy, những người lính bắt gặp hình ảnh vầng trăng sáng. Ánh trăng lung linh trên đầu ngọn súng, chất thực và chất lãng mạn hòa hợp vào nhau tạo cho câu thơ mang một vẻ đẹp bất ngờ. Ánh trăng lung linh chan hòa đã đẩy lùi cảm giác nặng nề trước giờ nổ súng, đẩy lùi cái rét mướt của đêm đông. Trong giờ phút ấy, dường như sự sống và cái chết không còn quan trọng với người lính nữa, họ như hoà quyện vào nhau, hoà quyện vào ánh trăng sáng trong tình cảm thân thương, nồng thắm Tóm lại, bài thơ đã khắc họa một cách chân thực và sống động chân dung của anh bộ đội cụ Hồ, cùng những gian khó hy sinh và tình cảm đồng chí ngời sáng của họ. Bài thơ là dấu ấn của một thời kỳ chiến đấu oanh liệt của cả dân tộc. Bài thơ sẽ sống mãi trong lòng người đọc, gợi nhắc những thế hệ sau ghi nhớ công ơn của những người chiến sĩ Việt Nam, những người đã làm nên kỳ tích với chiến thắng oanh liệt trước thực dân Pháp xâm lược.
File đính kèm:
- bai van hay ne.doc