Phương pháp dạy học văn bản nhật dụng Lớp 8

doc33 trang | Chia sẻ: dethi | Lượt xem: 2213 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Phương pháp dạy học văn bản nhật dụng Lớp 8, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
phần một: 
đặt vấn đề

	Năm học 2004 - 2005 là năm thứ ba dạy học sinh theo sách giáo khoa Ngữ văn mới trên phạm vi cả nước, cũng là năm đầu tiên đổi mới chương trình Ngữ văn lớp 8. Trong bối cảnh toàn ngành giáo dục và đào tạo đang nỗ lực đổi mới phương pháp giảng dạy theo hướng phát huy tính tích cực chủ động của học sinh trong hoạt động học tập để đào tạo ra những con người năng động, sớm thích ứng với đời sống xã hội đẩy nhanh sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước; đòi hỏi đội ngũ giáo viên chúng ta phải không ngừng đổi mới nội dung phương pháp, để trong mỗi tiết dạy bình thường ở trường phổ thông trung học, học sinh chúng ta được hoạt động nhiều hơn, thảo luận nhiều hơn và quan trọng là được suy nghĩ nhiều hơn trong con đường chủ động chiếm lĩnh nội dung học tập.
	Xuất phát từ thực tế đó, là một giáo viên trực tiếp dạy Ngữ văn trong quá trình giảng dạy từ sự tìm tòi học hỏi của bản thân và sự giúp đỡ của đồng nghiệp, tôi nhận thấy khi tổ chức hướng dẫn cho học sinh chiếm lĩnh tác phẩm văn chương, giáo viên cần chú ý đến phương pháp giảng dạy mới như đảm bảo nguyên tắc tính tích hợp, sử dụng hệ thống câu hỏi gợi mở, đưa học sinh vào tình huống có vấn đề, tình huống tự bộc lộ ... Vai trò của người thầy trong phương pháp mới này sẽ là sức hút kỳ diệu biến giờ học văn đơn điệu trước đây trở nên thi vị hứng thú, phong phú, sâu sắc hơn, khép lại cánh cửa chán học văn của học sinh ngày nay.
	Trong môn Ngữ văn phần văn bản luôn chiếm số tiết nhiều hơn cả (2 tiết một tuần). Phần văn bản thường là những tiết học đầu tiên của mỗi tuần nên thực sự có ý nghĩa. Nó không chỉ là cơ sở cung cấp ngôn ngữ mới cho phân môn Tiếng Việt, Tập làm văn mà còn rèn cho học sinh năng lực tổng hợp: nghe, nói, đọc, viết. Từ năm 2002 - 2003 đến nay trong nội dung thay sách đã đưa vào loại văn bản mới có ý nghĩa và vị trí quan trọng trong việc giáo dục học sinh đó là văn bản nhật dụng. Vậy có cần phương pháp dạy kiểu văn bản mới như thế nào (đặc biệt là phần văn bản nhật dụng lớp 8) để đạt hiệu quả cao là vấn đề nhiều giáo viên còn băn khoăn, trăn trở. Từ thực tế giảng dạy tôi chọn đề tài "Phương pháp giảng dạy phần văn bản nhật dụng lớp 8" làm vấn đề để các đồng nghiệp nghiên cứu trao đổi.
phần hai: 
giải quyết vấn đề
I- Cơ sở lý luận:
	Nghị quyết số 02/NQ-HNTW khoá VIII của Đảng đã nêu bật yêu cầu: "Đổi mới mạnh mẽ phương pháp giáo dục đào tạo, khắc phục lối truyền thụ một chiều, rèn luyện thành nếp tư duy sáng tạo của người học". Luật giáo dục của nước cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam cũng nêu rõ: "phương pháp giáo dục phải phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động, tạo tư duy sáng tạo của người học, bồi dưỡng năng lực tự học, lòng say mê học tập và ý thức vươn lên".
	Những năm gần đây định hướng đổi mới phương pháp đã được thống nhất theo tư tưởng tích cực hoá hoạt động học tập của học sinh dưới sự tổ chức hướng dẫn của giáo viên. Như thế một giáo án giờ văn bản kiểu mới không chỉ là bản đề cương nội dung chi tiết về cái hay, cái đẹp của áng văn thấy tâm đắc mà còn là bản thiết kế việc làm của học sinh.
	Để có sự đổi mới về phương pháp giảng dạy trước hết phải nói đến cấu trúc nội dung văn bản của sách giáo khoa. Qua các văn bản các em không chỉ cảm thụ nội dung nghệ thuật của những hình ảnh cao đẹp, của con người, cuộc sống mà còn giúp các em đến với những vấn đề vừa hiển nhiên vừa bức thiết trong thực tiễn đời sống. Kiểu văn bản nhật dụng lần đầu tiên được đưa vào chương trình Ngữ văn 6, 7, 8 đã thực hiện được sứ mệnh của nó trong con đường tiếp nhận tri thức của học sinh. Không chỉ khoán vấn đề giáo dục môi trường cho môn sinh học, giáo dục truyền thống cho môn lịch sử, giáo dục pháp luật cho môn giáo dục công dân ... môn Ngữ văn không thể đứng ngoài cuộc.
II- Cơ sở thực tiễn.
	Trong chuẩn học môn tiếng Anh nghệ thuật của bang Niu Óc (Mỹ) công bố tháng 3 năm 1996, người ta có nêu một hồi ký viết về vụ thảm sát Mỹ Lai ở Việt Nam. ở Anh trong "Quy định mới" của chương trình quốc gia công bố năm 1995 có ghi rõ: "yêu cầu cho học sinh tiếp xúc với các kiểu văn bản gần gũi với thực tế cuộc sống. ở Pháp chương trình Ngữ văn chủ trương dạy văn bản thuộc thể loại báo chí, các loại văn bản trên các phương tiện thông tin đại chúng. ở Trung Quốc, trong văn thơ cổ, có mặt cả những bài nặng màu sắc khoa học tự nhiên của Thẩm Quát (đời Tống); trong văn thơ hi ện đại có mặt cả những bài đề cập đến phương pháp toán học của Hoa La Canh. Trong phần cuối của cuốn "Việt Nam văn học sử yếu" xuất bản trước năm 1945, giáo sư Dương Quảng Hàm cũng đã dựa vào trên mười văn bản giống như văn bản nhật dụng theo như quan niệm hiện nay.
	Nêu những dẫn chứng trên để thấy được việc đưa văn bản nhật dụng vào chương trình Ngữ văn quả là một việc làm cấp thiết và hợp lý không chỉ riêng đối với nền giáo dục nước ta mà còn đối với nền giáo dục của các nước trên thế giới.
	Trở lại với thực tế giảng dạy môn Ngữ văn, nhiều giáo viên chỉ khai thác các văn bản ở giá trị nội dung, nghệ thuật còn các giá trị về liên hệ thực tế cuộc sống thì hạn chế, hoặc bị bỏ qua. Một số còn vận dụng phương pháp giảng dạy mới một cách máy móc, hoặc chưa được thường xuyên, hoặc trở lại với thói quen dạy học cũ: thầy nói, trò nghe, ghi chép.
	Về phía học sinh: vẫn còn thói quen thụ động quen nghe chép ghi nhớ những gì giáo viên nói chưa có thói quen chủ động tìm hiểu khám phá bài học. Đa số học sinh chưa chủ động v ận dụng kiến thức kỹ năng của văn học vào thực tế cuộc sống, ít biết liên hệ giữa thực tế cuộc sống với văn học. Từ đó dẫn đến việc học sinh ít nắm bắt, quan tâm hoặc thờ ơ với những vấn đề nóng hổi bức thiết của đời sống xã hội trong và ngoài nước. Từ thực tiễn trên có thể nói rằng việc tìm ra phương pháp tốt nhất để dạy phần văn bản nhật dụng lớp 8 nói riêng và kiểu văn bản khác nói chung là một việc làm cần thiết trong xu thế phát triển ở môn Ngữ văn và trong nền giáo dục Việt Nam.
III- Phương pháp nghiên cứu đề tài.
1. Thống kê, phân loại.
	Với phương pháp này tôi chia phần văn bản Ngữ văn lớp 8 thành kiểu bài tự sự, biểu cảm nghị luận, nhật dụng từ đó có cái nhìn toàn diện về kiến thức phần văn lớp 8 và xác định được vị trí nhiệm vụ kiểu văn bản nhật dụng căn cứ vào đó nghiên cứu vấn đề cụ thể của đề tài.
2. Miêu tả và phân tích.	
	Dùng phương pháp này để chỉ rõ những phương pháp cơ bản, cấu trúc tiến hành dạy kiểu văn bản nhật dụng lớp 8. Trên cơ sở miêu tả nội dung của một bài văn bản nhật dụng lớp 8, đề xuất những nhiệm vụ, yêu cầu cùng với biện pháp thực hiện cho phù hợp.
IV- Phạm vi, đối tượng nghiên cứu của đề tài.
	Trong đề tài này, tôi dựa trên phương pháp dạy văn bản nói chung để nghiên cứu phương pháp dạy kiểu văn bản nhật dụng lớp 8. Minh hoạ cụ thể qua bài 10; tiết 39 "thông tin về Ngày Trái Đất năm 2000".

V- Nội dung đề tài.
A. Cấu trúc chương trình Ngữ văn lớp 8.
	- Văn bản tự sự: 8 bài
	- Văn bản nhật dụng: 3 bài
	* Thông tin về Ngày Trái Đất năm 2000
	* Ôn dịch, thuốc lá
	* Bài toán dân số
	- Văn bản biểu cảm: 11 bài
	- Văn bản nghị luận: 6 bài
	Nhìn chung hệ thống văn bản Ngữ văn lớp 8 rất phong phú, nhiều thể loại, nhiều bài với nội dung sâu sắc rất có ý nghĩa cho việc giảng dạy hiện nay. Từ sự kế thừa và phát triển nâng cao hơn so với hệ thống văn bản nhật dụng lớp 6, lớp 7 phần văn bản nhật dụng lớp 8 đề cập đến những vấn đề có ý nghĩa rộng hơn, thiết thực hơn trong cuộc sống. Mặc dù chỉ có 3 tiết, không nhiều so với các kiểu văn bản biểu cảm, tự sự, nghị luận song nó lại có vị trí quan trọng thiết yếu trong việc giáo dục nhân cách cho học sinh.
	* Sách giáo khoa và sách giáo viên.
	- Sách giáo khoa là tài liệu chính để giáo viên giảng dạy và học tập. Khi dạy và học giáo viên và học sinh phải biết tận dụng triệt để sách giáo khoa, chú ý đọc thêm tài liệu để hiểu sách.
	- Sách giáo viên: Giáo viên dạy phải hiểu rằng, sách giáo viên không thể áp dụng máy móc cho bất kỳ đối tượng nào. Giáo viên sử dụng như một tài liệu tham khảo, hướng dẫn, cần cân nhắc, chọn lọc kiến thức cho phù hợp với học sinh của lớp mình dạy.
B. Phương pháp dạy phần văn bản nhật dụng lớp 8.
1. Mục đích, yêu cầu, ý nghĩa của việc dạy và học văn bản nhật dụng.	
	- Trước hết phải hiểu được thế nào là văn bản nhật dụng; Văn bản nhật dụng không phải là một khái niệm chỉ thể loại. Nói đến văn bản nhật dụng trước hết nói đến tính chất của nội dung văn bản. Đó là những bài viết có nội dung gần gũi bức thiết đối với đời sống trước mắt của con người và cộng đồng trong xã hội hiện đại như thiên nhiên, môi trường, dân số v.v...
	- Mục đích dạy văn bản này là tạo điều kiện tích cực để thực hiện nguyên tắc giúp học sinh hoà nhập với xã hội, quan tâm đến những vấn đề xã hội có ý nghĩa lâu dài, đưa học sinh trở lại với những vấn đề vừa quen thuộc, vừa gần gũi hàng ngày, gắn kết với đời sống thực tế (vấn đề môi trường, dân số, tệ nạn xã hội). Mỗi văn bản nhật dụng là một cánh cửa mở ra giúp các em có thêm hiểu biết về thế giới xung quanh, từ đó nâng cao làm phong phú thêm tâm hồn, tình cảm và nhận thức của các em.
	- Dạy văn bản nhật dụng phải từ cái trước mắt có tính cập nhật và thời sự chỉ ra ý nghĩa lâu dài muôn thuở, từ cái của một nơi chỉ ra cái của mọi nơi, từ một phương diện chỉ ra mối liên quan với nhiều phương diện.
	Ví dụ: ở văn bản "Thông tin Ngày Trái Đất năm 2000". Từ việc giúp các em nhận rõ tác hại của bao bì nilông giúp các em có hành động và ý thức bảo vệ môi trường, có suy nghĩ tích cực về các việc tương tự trong vấn đề xử lý rác thải sinh hoạt, một vấn đề vào loại khó giải quyết nhất trong nhiệm vụ bảo vệ môi trường.
	- ở văn bản "Ôn dịch, thuốc lá" từ việc giúp các em nhận thức được tác hại to lớn, nhiều mặt của thuốc lá đối với đời sống cá nhân, cộng đồng đến việc tạo ra cho các em có ý thức quyết tâm phòng chống thuốc lá ở mọi nơi, mọi lúc.
2. Mục giới thiệu bài.
	Giới thiệu bài giảng một cách hấp dẫn, nhằm gây hứng thú học tập, thiết lập mối quan hệ giữa kiến thức cũ và kiến thức mới đưa ra mục tiêu của bài học cho học sinh. Giáo viên có thể tiến hành hoạt động này dưới nhiều hình thức khác nhau như kể một câu chuyện, trình bày sinh động một đoạn trích của bài học mới, đưa một thông tin hấp dẫn, một số tranh ảnh, giáo cụ trực quan có liên quan đến một phần nội dung nào đó của bài học mới.
	Khi dạy bài "Ôn dịch, thuốc lá" giáo viên có thể trích dẫn câu "Thuốc lá còn đe doạ tính mạng, sức khoẻ con người còn mạnh hơn cả AIDS" vậy vì sao lại có thông tin đó chúng ta sẽ đi tìm hiểu tác hại của việc hút thuốc lá trong văn bản "Ôn dịch, thuốc lá".
3. Mục đọc hiểu văn bản.
	Trong dạy và học văn, đọc là một khâu rất quan trọng trong hoạt động tiếp nhận văn bản, bao gồm nhiều cách đọc khác nhau: đọc đúng, đọc thần, đọc thành tiếng, cơ bản là đọc diễn cảm. Trong chương trình Ngữ văn mới đọc là một trong bốn kỹ năng mà học sinh phải tương đối thành thạo, cần hướng dẫn cho học sinh đọc có vận dụng của tư duy, tình cảm, góp phần tái hiện nội dung văn bản. Điều cốt tử với mọi giờ học văn là từ đọc văn bản giúp học sinh hiểu - cảm thụ đúng văn bản thấm thía mối liên hệ khăng khít giữa văn bản với cuộc sống. Từ khâu đọc cũng có thể hình thành cho học sinh các kỹ năng phân tích, bình giá, cảm thụ và nghe tốt, nói tốt, viết tốt.
	Với văn bản nhật dụng khi đọc không cần nhiều ngữ điều như các văn bản tự sự, biểu cảm, yêu cầu đọc rõ ràng mạch lạc chính xác chú ý đến các thuật ngữ chuyên môn cần phát âm chuẩn xác. Nhấn mạnh, dừng lại lâu hơn ở những cấu tạo hình thức đặc biệt ví dụ như là dòng chữ in đậm trong "Thông tin Ngày Trái Đất năm 2000": Một ngày không sử dụng bao bì nilông hay ở bài "Ôn dịch, thuốc lá" "nếu giặc đánh như vũ bão thì không đáng sợ, đáng sợ là giặc gặm nhấm như tằm ăn dâu" những câu cảm có dấu chấm than cần đọc với giọng phù hợp. Có thể nêu các câu hỏi đểư học sinh tự tìm ra yêu cầu của mỗi văn bản.
	Ví dụ: Theo em văn bản "Thông tin Ngày Trái Đất năm 2000" chúng ta cần phải đọc với giọng như thế nào ?
	Hãy nêu yêu cầu đọc của văn bản "Ôn dịch, thuốc lá" ?
	ở phần chú thích, bên cạnh việc giải nghĩa, ở đây còn có những thông tin khác về lịch sử, xã hội, chính trị ... cần lưu ý học sinh đọc kỹ cả những phần chú thích đó mới hiểu một cách đầy đủ sâu sắc, ý nghĩa của văn bản. Ngoài các từ trong phần chú thích sách giáo khoa giáo viên cần giảng thêm các từ ngữ khó khác.
	- Ví dụ trong văn bản "Bài toán dân số": giải thích "chàng Ađam và nàng Eva" theo kinh thánh của đạo Thiên chúa, đó là cặp vợ chồng đầu tiên trên trái đất được chúa tạo ra và sai xuống trần gian để hình thành và phát triển loài người.
	- Tồn tại hay không tồn tại: là câu nói nổi tiếng của nhà văn HămLet trong vở kịch "HămLet" của U.Sêcxpia (Anh).
	Trong bài "Ôn dịch, thuốc lá" giải thích:
	- Vi trùng: vi khuẩn gây bệnh
	- Ký sinh trùng: động vật bậc thấp sống bám vào, nhờ vào một sinh vật chủ nào đó.
4. Mục phân tích.
	Theo tôi ở phần này cần chú ý những điểm chính sau:
a- Đảm bảo nguyên tắc tích hợp.
	Ngay từ khâu viết sách các nhà biên soạn đã có sự tích hợp, đó là việc thiết kế bài và hệ thống tiết dạy theo hướng đồng quy.
	ở lớp 6 nội dung chính của các văn bản nhật dụng viết về các di tích lịch sử, các danh lam thắng cảnh và thiên nhiên môi trường.
	ở lớp 7 nội dung chính là những vấn đề về quyền trẻ em, nhà trường, phụ nữ, văn hoá, giáo dục.
	ở lớp 8 tập trung vào các nội dung cơ bản như vấn đề dân số, môi truờng tệ nạn xã hội.
	Nguyên tắc tích hợp thể hiện cụ thể ở nội dung từng bài. Ví dụ: 	ở văn bản "Thông tin Ngày Trái Đất năm 2000" thực chất là một văn bản thuyết minh về một vấn đề khoa học hiểu được nó một cách cặn kẽ lại không phải đơn giản muốn dạy đạt kết quả cần tích hợp với những kiến thức đang và sẽ học về văn bản thuyết minh ở phần tập làm văn, tích hợp với một số kiến thức khoa học tự nhiên đang và sẽ học như: hoá học, sinh học, địa lý, giáo dục công dân.
	Ví dụ: nhận xét về cách trình bày bố cục của văn bản ?
	(Bố cục theo 3 phần: nêu vấn đề, phân tích trình bày cho vấn đề sáng tỏ, kêu gọi mọi người hành động theo vấn đề đã nêu ị cách trình bày rõ ràng chặt chẽ hợp lý, logíc khoa học: tích hợp với bố cục đặc điểm của kiểu văn bản thuyết minh. 
	- Em hiểu gì về đặc điểm tính chất của plastic ? (là chất dẻo nhựa, vật liệu gồm phân tử pôlime, không tự phân huỷ được).
	- Các chất NH2, CH4 (mêtan), H2S (sunphurơ) là những chất như thế nào?
	Trong văn bản "Ôn dịch, thuốc lá", "Dân số thế giới", tích hợp với môn lịch sử, địa lý, giáo dục công dân, phương pháp cách làm của văn bản thuyết minh nghị luận, tích hợp với phân môn tiếng Việt ở các yếu tố nghệ thuật.
	Ví dụ: - Khi nêu tác hại của thuốc lá đối với con người tác giả sử dụng những phương pháp thuyết minh nào ? (liệt kê, phân tích, giải thích).
	- Ngoài ra còn sử dụng phương thức biểu đạt nào khác ? (biểu đạt trực tiếp, gián tiếp).
	- Tác dụng của các phương thức biểu đạt đó ?
	- Trong văn bản "Bài toán dân số" có mấy luận điểm chính ?
	- Vấn đề nghị luận được đặt ra trong văn bản này là gì ?
	- Em rút ra kinh nghiệm gì về cách viết văn thuyết minh sau khi học văn bản này ?
	Dù có đề cập vấn đề thời sự bức thiết đến đâu, văn bản nhật dụng đưa vào sách giáo khoa phải đạt đến giá trị nghệ thuật nhất định. Bởi vậy, hoàn toàn có thể dạy văn bản ấy như một văn bản văn học (xét về phương diện phân tích từ ngữ, thủ pháp nghệ thuật). Một văn bản nhật dụng có thể sử dụng nhiều phương thức biểu đạt khác nhau. Giáo viên có thể căn cứ vào các nội dung đang học, đã học và sẽ học ở hai phần Tiếng Việt, Tập làm văn để xác định trọng điểm phân tích về mặt giá trị nghệ thuật cho phù hợp.
	Ví dụ: Trong văn bản "Thông tin Ngày Trái Đất năm 2000".
	- Để trình bày tác hại của việc sử dụng bao bì nilông tác giả sử dụng biện pháp nghệ thuật nào ? (liệt kê)
	- Dùng biện pháp liệt kê đó có tác dụng gì ? (nêu được tác hại về mọi mặt của việc sử dụng bao bì nilông).
	- Nhận xét về cách sử dụng từ ngữ của văn bản trên ? (ngắn gọn, rõ ràng, khoa học, chính xác, dễ nhớ dễ hiểu) ị Đặc điểm từ ngữ của kiểu văn bản thuyết minh.
	- Các trình bày câu, trừ ở đoạn cuối của văn bản có gì đặc biệt ? (chữ in to, sử dụng câu cầu khiến, điệp ngữ).
	- Có tác dụng gì ? (nhằm khuyên bảo, yêu cầu đề nghị mọi người hạn chế sử dụng bao bì nilông giữ gìn sự trong sạch của môi trường trái đất).
	Trong văn bản "Ôn dịch, thuốc lá".
	- Cách trình bày ở tiêu đề văn bản có gì đặc biệt ? (Dấu phẩy được dùng theo lối tu từ để nhấn mạnh sắc thái biểu cảm - thái độ của tác giả: rất căm ghét thuốc lá, gây được sự chú ý với người đọc thấy được nghiện thuốc lá là một bệnh nguy hiểm).
	- Nhận xét về cách trình bày và nghệ thuật của câu: "Ôn dịch, thuốc lá đe doạ tính mạng, sức khoẻ con người còn mạnh hơn cả AIDS ?"
	(dòng chữ in nghiêng, biện pháp nghệ thuật so sánh).
	- Tác dụng của biện pháp nghệ thuật này ? (nhấn mạnh hiểm hoạ to lớn của việc hút thuốc lá).
	Trên đây là một số ví dụ nhỏ về nguyên tắc tích hợp giữa các phần trong môn Ngữ văn (Văn - Tiếng Việt - Tập làm văn), trong mối quan hệ với các môn học khác. Khi tìm hiểu văn bản phải bám sát vào các yếu tố hình thức mà trước hết là thể loại và ngôn từ nghệ thuật để làm sáng tỏ nội dung văn bản, mở rộng khắc sâu kiến thức Tiếng Việt, Tập làm văn. Khi áp dụng nguyên tắc tích hợp vào trong giảng dạy môn văn bản cụ thể, giáo viên cần có nghệ thuật trong việc tạo tình huống để hỏi học sinh. Cách thức tích hợp phụ thuộc vào nội dung, mức độ thời điểm và năng lực sư phạm của mỗi giáo viên tích hợp một cách kín đáo nhuần nhuyễn và đạt hiệu quả, tránh gò bó khiên cưỡng. Có thể tích hợp thông qua các câu hỏi chứa đựng những nội dung tích hợp, thông qua lời giảng bình của giáo viên, qua phần nội dung tiểu kết từng phần hay tổng kết cả giờ học.
b- Sử dụng câu hỏi phát huy tính tích cực của học sinh. 
	Muốn phát triển trí sáng tạo của học sinh phải chú ý đặc biệt đến phương pháp dạy học nhằm phát huy tính tích cực của học sinh. Tốt nhất là tổ chức những tình huống có vấn đề, đòi hỏi dự đoán, nêu giả thiết, tranh luận giữa những ý kiến trái ngược nhau, đưa học sinh vào tình huống tự bộc lộ.
	Ví dụ trong văn bản "Ôn dịch, thuốc lá" có thể sử dụng một số câu hỏi như:
	- Trước thông tin: "Ôn dịch, thuốc lá còn nặng hơn cả AIDS" em có thái độ như thế nào ? (Ngạc nhiên, bất ngờ hay không ngạc nhiên? )
	- Trong số những thông tin về chiến dịch chống thuốc lá, em chú ý nhất thông tin nào ? Vì sao ? (Học sinh tự bộc lộ theo nhận thức của từng cá nhân).
	- Em dự định sẽ làm gì trong chiến dịch chống thuốc lá rộng khắp hiện nay?
	Theo tôi những câu hỏi trên sẽ đưa các em vào tình huống có vấn đề, tự bộc lộ.Trong tình huống này học sinh không trả lời từng ý bám sát theo câu hỏi của giáo viên. Các em bày tỏ ý kiến của mình, phản bác ý kiến của các bạn. Các em trao đổi với nhau do đó cũng chú ý theo dõi sự bình luận đánh giá ý kiến của nhau. Có em cho rằng thông tin thuốc lá làm suy đồi đạo đức là đáng chú ý nhất vì con người không có đạo đức sẽ là gánh nặng cho xã hội. Có em dự định sẽ về giúp bố cai nghiện thuốc lá đầu tiên. Có em dự định sẽ mang tuyên truyền bài "Ôn dịch, thuốc lá" đến từng gia đình nơi em ở vì thực chất theo em đó có rất nhiều người cứ hút mà không biết đến tác hại của nó.
	Không chỉ các em được phát biểu trước lớp mới là tự bộc lộ, phát huy khả năng nhận thức của mình mà ngay cả những em chưa mạnh dạn xin nói trước lớp mới chỉ dám trao đổi nhỏ với các bạn bên cạnh, ngay cả các em chỉ ngồi im, chăm chú theo dõi cuộc trao đổi nhỏ, ngay cả một cử chỉ xua tay, một tiếng cười đồng tình, một tiếng la phản đối ... cũng là hình thức tự bộc lộ khác nhau của học sinh; Giáo viên phải biết điều khiển, khơi gợi sự tự bộc lộ mình của các em đó. Người giáo viên phải biết tổ chức nuôi dưỡng và kích thích sự phát triển tình huống và biết cách kết thúc đúng lúc là cần thiết. Giáo viên nên nói ít chỉ nên có những gợi ý nhỏ thúc đẩy cuộc thảo luận, tránh không phê phán hoặc uốn nắn ngay ý kiến của các em mà khéo léo khêu gợi để các em tự nhận xét, phản bác. Sau khi thấy các ý kiến bắt đầu lặp lại, giáo viên cho dừng cuộc thảo luận và dẫn giải, bình luận các ý kiến đã phát biểu. Giáo viên nên thừa nhận nhiều khả năng và không áp đặt buộc học sinh theo một khả năng nào. Muốn đưa học sinh vào tình huống có vấn đề cách thành công, giáo viên phải tạo được không khí thuận lợi của lớp học, làm cho học sinh thích thú, mong đợi đến giờ học, phải tạo ra sự giao tiếpcởi mở, thân mật giữa thầy với trò. Bằng trình độ chuyên môn và nghiệp vụ của mình, giáo viên tạo được uy tín cao. Bằng tác phong gần gũi thân mật giáo viên chiếm được sự tin cậy của học sinh. Bằng cách tổ chức và điều khiển hợp lý các hoạt động của từng cá nhân và tập thể học sinh, giáo viên sẽ tạo được hứng thú cho cả lớp và niềm vui học tập của từng học sinh.
	Để phát huy tính tích cực của học sinh theo tôi giáo viên nên sử dụng cả những câu trắc nghiệm trong giờ học.
	Ngoài những câu hỏi quen thuộc như phát hiện, gợi tìm, suy luận ... việc đưa những câu hỏi trắc nghiệm trong khi giảng dạy là cần thiết (không nhất thiết cứ phải giờ kiểm tra, đánh giá mới sử dụng). Câu hỏi trắc nghiệm được xây dựng theo các dạng câu hỏi lựa chọn đúng sai, câu hỏi nhiều lựa chọn (thường là 4 lựa chọn) câu hỏi điền khuyết, câu hỏi đối chiếu, cặp đôi ... Những câu hỏi này sẽ góp phần rèn luyện kỹ năng nghe, nói, đọc, viết, năng lực đọc hiểu văn bản, nắm vững và sử dụng các kiến thức kỹ năng từ ngữ ngữ pháp cho học sinh; hạn chế được thói quen học tư học lệch của học sinh, học sinh phải bỏ nhiều thời gian đọc và suy nghĩ trước khi trả lời.
	Ví dụ: ở bài "Bài toán dân số"
	- Theo em nguyên nhân chính của sự gia tăng dân số là gì ?
	A. Do khả năng sinh con trong thực tế của người phụ nữ rất lớn
	B. Do kinh tế thấp kém
	C. Do không có biện pháp kế hoạch hoá gia đình
	D. Do con người, nhất là phụ nữ chưa được hưởng quyền lợi giáo dục.
	- Theo em trong thực tế đâu là con đường tốt nhất để hạn chế sự gia tăng dân số ?
	A. Đẩy mạnh sự phát triển kinh tế của quốc gia châu lục
	B. Đẩy mạnh sự phát triển giáo dục đối với phụ nữ
	C. Tạo nên sự ổn định về chính trị của quốc gia, châu lục ...
	D. Đẩy mạnh sự phát triển văn hoá, xã hội của quốc gia châu lục ...
	Tóm lại: có rất nhiều phương pháp giảng dạy để phát huy tính tích cực của học sinh, song giờ dạy chỉ dừng lại ở những câu hỏi gợi tìm, suy luận, khái quát đánh giá thì chưa đủ. Để có không khí học tập sôi nổi, huy động được nhiều học sinh tham gia theo tôi giáo viên cần đặc biệt chú ý đến cách đưa học sinh vào những tình huống có vấn đề để học sinh tự bộc lộc.
	Một trong những mục tiêu giảng dạy của phần văn bản nhật dụng không thể thiếu được đó là giáo viên phải giúp học sinh soi sáng những kiến thức đã học vào thực tiễn cuộc sống. Trong văn bản: "Thông tin Ngày Trái Đất năm 2000" nếu chỉ tập trung phân tích tác hại của việc sử dụng bao bì nilông thì chưa đủ. Bao bì nilông chỉ là một hiện tượng có liên quan đến vấn đề bảo vệ môi trường, nói rộng hơn liên quan đến sứ mệnh trái đất, ngôi nhà chung của chúng ta. Bởi vậy từ cách đặt vấn đề cũng như kết thúc vấn đề cần luôn liên hệ đến những vấn đề khác của rác thải sinh hoạt, của bảo vệ môi trường nâng được tầm suy nghĩ của học sinh, mới thể hiện được ý nghĩa của việc học tập văn bản nhật dụng.
	Ví dụ: Em dự định sẽ làm gì để "Thông tin Ngày Trái Đất năm 2000" đi vào đời sống biến thành hành động cụ thể ?.
	- Chỉ sử dụng bao bì nilông khi thật cần thiết
	- Đề nghị mọi người trong gia đình hãy hạn chế sử dụng bao bì nilông
	- Gom nhặt bao bì nilông vào nơi quy định
	- Vẽ những bức tranh thể hiện tác hại của việc sử dụng bao bì nlông
	Đứng trước thực trạng môi trường đang bị huỷ hoại dần em có suy nghĩ như thế nào ?
	ở văn bản "Bài toán dân số" có thể liên hệ: Em có hiểu biết gì về sự gia tăng dân số ở địa phương em ? Nó có tác động gì tới đời sống kinh tế xã hội ?
	(Vẫn còn nhiều gia đình sinh con thứ ba, có gia đình sinh con thứ năm đời sống vật chất khó khăn, nhiều người trong họ trong khu đân cư phải trợ giúp, đến nhà trường phải miễn giảm học phí, không có điều kiện cho con ăn ngon mặc đẹp, nuôi dạy chúng trưởng thành cũng rất khó khăn).
	Theo em tại sao ở địa phương em vẫn có người sinh con thứ ba ?
	(Vì muốn có con trai có nhiều con cháu mới có nhiều phúc, tư tưởng thích đông con nhiều cháu ...)
	- Giả sử gia đình em bố mẹ chỉ sinh được 2 con gái, bây giờ có ý định sinh con thứ ba em sẽ làm gì để khuyên bố mẹ đừng sinh đẻ nữa ?
	Ví dụ: Trong văn bản "Ôn dịch, thuốc lá".
	- Em sẽ làm gì nếu trong gia đình em có người nghiện hút thuốc lá ?
	(Dẫn chứng những tác hại của thuốc lá mà em biết sau khi học xong văn bản, khuyên người đó bỏ thuốc bằng nhiều cách, có thể hút ít dần rồi bỏ hẳn, dùng kẹo cai nghiện ...)
	- Giải thích tại sao trên bao bì thuốc lá lại ghi: "Hút thuốc lá có hại cho sức khoẻ"?
	Có rất nhiều cách đưa ra những câu hỏi giúp học sinh liên hệ với thực tế cuộc sống, có thể đưa ra những tình huống giả định hoặc những câu hỏi chứa đựng những thông tin nhận thức về thực tế cuộc sống của các em. Có liên hệ với thực tế có đưa học sinh trở về với những vấn đề bức thiết của cuộc sống, khẳng định vai trò vị trí của các em trong hiện tại, tương lai mới thể hiện được giá trị của văn bản nhật dụng.
c. Sử dụng tr

File đính kèm:

  • docskkn day van ban nhat dung.doc