Phương pháp giảng dạy phần ca dao dân ca ở bậc trung học cơ sở (THCS)

doc15 trang | Chia sẻ: dethi | Lượt xem: 3530 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Phương pháp giảng dạy phần ca dao dân ca ở bậc trung học cơ sở (THCS), để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên


 Mục lục 

 Trang 

I. Đặt vấn đề 2
1. Lí do đưa ra sáng kiến kinh nghiệm . 2
2. Mục đích của kinh nghiệm được tổng kết . 3 
3. Nhiệm vụ của sáng kiến kinh nghiệm. 3
II. Giải quyết vấn đề 4 
1. Thực trạng ban đầu 4
2. Cơ sở để giải quyết vấn đề 5
3. Quá trình thực nghiệm giải pháp mới 6
4. Kết quả đạt được 9
5. Bài học kinh nghiệm 10
III. Kết luận chung và kiến nghị 11
Thư mục tham khảo 13
















 Phương pháp giảng dạy phần ca dao dân ca
 ở bậc trung học cơ sở (thcs)

 i. Đặt vấn đề

 1. Lí do đưa ra sáng kiến kinh nghiệm:
 	 a. Cơ sở lí luận của vấn đề:
Môn ngữ văn có một vị trí đặc biệt trong việc thực hiện mục tiêu chung của trườngTrung học cơ sở (THCS), góp phần hình thành những con người có trình độ học vấn phổ thông cơ sở, chuẩn bị cho họ ra đời hoặc tiếp tục học lên ở bậc học cao hơn. Đó là những con người có ý thức tự tu dưỡng, biết yêu thương quý trọng gia đình, bè bạn, có lòng yêu nước, yêu chủ nghĩa xã hội, biết hướng tới những tư tưởng tình cảm cao đẹp như lòng nhân ái, tinh thần tôn trọng lẽ phải, sự công bằng, lòng căm ghét cái xấu, cái ác. Đó là những con người biết rèn luyện để có tính tự lập, có tư duy sáng tạo, bước đầu có khả năng cảm thụ các giá trị chân, thiện, mĩ trong nghệ thuật, trước hết là trong văn học, có năng lực thực hành và năng lực sử dụng tiếng Việt như một công cụ để tư duy và giao tiếp. Trong chương trình cấp học, phần ca dao dân ca chiếm một vị trí quan trọng được đưa vào trương trình lớp 7. Việc lựa chọn đưa phần ca dao vào học ở lớp 7 là thỏa đáng, bởi vì tuy dung lượng kiến thức chưa thật nhiều (học ở tuần 3 và 4) nhưng đó là những bài ca được lựa chọn, tiêu biểu cho các nội dung của ca dao dân ca Việt nam. Qua đó học sinh được tiếp xúc với những giá trị tinh thần phong phú và những đặc sắc về văn hóa, cảnh vật, cuộc sống, con người Việt nam. Từ đó giáo dục cho học sinh biết chân trọng, yêu quý thành tựu của văn học nước nhà , có ý thức giữ gìn sự trong sáng, giàu đẹp của tiếng Việt. Hơn nữa thông qua những bài học, mỗi học sinh có ý thức và biết ứng xử, giao tiếp trong gia đình, trong trường học và ngoài xã hội một cách lễ phép có văn hóa. Biết yêu quý những giá trị chân, thiện, mĩ và biết khinh ghét cái xấu được phản ánh trong mỗi bài ca dao.
Ca dao dân ca là sản phẩm tinh thần của người lao động, nó ra đời và tồn tại vì nhu cầu của con người. Mỗi lời ca đều gây đựơc những rung động sâu xa trong lòng người đọc. Chính điều đó góp phần bồi dưỡng tâm hồn con người .Bởi vì “văn chương là hình dung của sự sống, văn chương tái tạo ra sự sống “.(Hoài Thanh ). 
Ngoài việc cảm nhận được cái hay cái đẹp mà ca dao dân ca đem lại, nếu học sinh thuộc và nắm chắc kiến thức về thể loại văn học dân gian này, sẽ là những bước đường thuận lợi ,có điều kiện tốt để tìm hiểu các tác phẩm văn học khác, đặc biệt là thơ trữ tình .
b.Cơ sở thực tiễn :
Qua thực tế giảng dạy môn ngữ văn ở trừơng THCS, tôi nhận thấy nếu biết huy động vốn kiến thức của giáo viên và học sinh, người giáo viên biết tìm tòi một phương pháp giảng dạy thoả đáng thì học sinh sẽ càng yêu thích môn học ngữ văn. Hơn nữa ca dao dân ca là thể loại trữ tình đặc sắc mang rõ nét bản sắc văn học Việt Nam, lời lẽ giản dị không cầu kì, dễ nhớ dễ thuộc, các hình ảnh so sánh, ẩn dụ và lối viết thể thơ dân tộc (6-8) đã khiến nhiều học sinh yêu thích học tập phần văn học này .
Song thực tế trong giảng dạy, một số giờ học chưa thực sự thu hút sự quan tâm hứng khởi của học sinh .Có lẽ việc phân tích, hướng dẫn đọc - hiểu của người thầy còn sơ sài,việc cảm nhận của học sinh còn chung chung nên chưa nắm bắt được cái hồn, ngụ ý sâu xa mà người lao động gửi gắm, chưa cảm nhận đằy đủ chất nhân văn cao đẹp ẩn chứa sâu xa trong mỗi từ, mỗi câu chữ của thể thơ lục bát – một thể thơ dân tộc truyền thốngthường được sử dụng trong ca dao dân ca, thực sự học sinh chưa học tập được nhiều cách nói năng ý nhị duyên dáng để vận dụng trong giao tiếp hàng ngày, tức khả năng ứng dụng chưa cao.Tóm lại là chưa khai thác hết cái hay cái đẹp mà mỗi bài ca đem lại .
Xuất phát từ cơ sở lí luận và cơ sở thực tiễn trên , với cương vị là một giáo viên giảng dạy bộ ngữ văn trong nhà trường phổ thông, tôi nhận thấy cần tích cực đổi mới dể có một phương pháp giảng dạy thích hợp phát huy hiệu quả tối đa việc dạy phần ca dao dân ca. Đây là một vấn đế có tầm quan trọng và thiết thực. Do vậy tôi đưa ra sáng kiến kinh nghiệm này nhằm góp phần để mỗi giáo viên và bản thân giảng dạy tốt hơn nữa phần ca dao dân ca .
2. Mục đích của kinh nghiện được tổng kết :
Nếu mỗi giáo viên thực hiện có kết quả việc giảng dạy các văn bản văn học ,trong đó có phần ca dao dân ca là chúng ta đã cung cấp cho học sinh kiến thức về thể loại văn học dân gian này, đồng thời góp phần bồi đắp tâm hồn các em. Hơn nữa còn mở rộng cho mỗi học sinh sự hiểu biết về danh lam thắng cảnh, sản vậy, văn hoá của mỗi vùng miền và có khả năng liên hệ với địa phương mình , từ đó thêm yêu thiên nhiên, truyền thống lịch sử văn hoá của quê hương.
Sáng kiến kinh nghiệm này giúp mỗi giáo viên có thêm một cách nhìn nhận thấu đáo về việc giảng dạy CDDC và góp phần giảng dạy tốt hơn phần CDDC trong chương trình ngữ văn lớp 7 THCS. 
3. Nhiệm vụ của sáng kinh nghiệm :
a. Nhiệm vụ tổng quát: 
Sáng kiến kinh nghiệm này tổng kết các phương pháp cách thức kĩ năng mà người viết thu được từ hoạt động thực tiễn giảng dạy ở các trường THCS nơi từng công tác giảng dạy.
Những việc đã làm từ thực tế trong giảng dạy môn ngữ văn được đúc rút thành kinh nghiệm.Thông qua sáng kiến kinh nghiệm này mong muốn phần nào, hoặc là sự gợi ý, sự tham khảo đối với mỗi giáo viên giảng dạy môn ngữ văn ở bậc THCS.
b. Nhiệm vụ cụ thể :
SKKN đưa ra phương pháp giảng dạy CDDC mà người viết đã từng vận dụng trong giảng dạy, đúc rút thành kinh nghiệm .SKKN có nhiệm vụ tập trung vào vấn đề “phương pháp giảng dạy phần CDDC ở chương trình ngữ văn THCS”. Đưa ra phương pháp tiếp cận CDDC đạt hiệu quả tối ưu nhất, để mỗi giáo viên, học sinh tiếp cận một cách nhanh chóng, hiểu kĩ càng mỗi bài CDDC, có khả năng vận dụng trong thực tiễn giao tiếp và có khả năng học tập các phần văn học khác .

4. Đối tượng – phạm vi – phương pháp nghiên cứu .
a. Đối tượng nghiên cứu :
Đối tượng là học sinh lớp7 bậc THCS .Tìm hiểu phương pháp tiếp cận của học sinh đối với phần văn học dân gian là CDDC để từ đó tạo dựng phương pháp giảng dạy phù hợp . SKKNnày đã từng thực hiện trên đối tượng học sinh trường THCS Thị trấn Thanh ba 1.
b. Phạm vi nghiên cứu :
Trong các nhà trường THCS, đối với các giờ giảng văn phần ca dao dân ca.
c. Phương pháp nghiên cứu :
SKKN này kết hợp các phương pháp quan sát khách quan (dự giờ thăm lớp ) phương pháp thực nghiệm giảng dạy, phương pháp điều tra cơ bản, dùng câu hỏi trắc nghiệm, đặt ra cho một số học sinh, giáo viên trả lời nhằm thu thập ý kiến của họ về vấn đề cần nghiên cứu.
Ngoài ra phương pháp đọc tài liệu, phương pháp so sánh phân tích cũng được áp dụng rút ra những tổng kết để viết SKKN .




 II.Giải quyết vấn đề.

Thực trạng ban đầu :
Qua thực tế giảng dạy ở các trường THCS, tôi nhận thấy trong những năm gần đây đội ngũ giáo viên dạy văn đã có nhiều cố gắng, tích cực đổi mới phương pháp giảng dạy, nhiều giờ giảng văn thực sự có hiệu quả, không những cung cấp được kiến thức văn học cho học sinh mà còn góp phần bồi dưỡng tâm hồn tình cảm cho các em. Song bên cạnh đó một số học sinh chưa thực sự yêu thích môn văn, một số giáo viên chưa thực sự tích cực đổi mới phương pháp giảng dạy. Do vậy đòi hỏi người thầy phải không ngừng tự học, tự bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ và đặc biệt đổi mới phương pháp giảng dạy trên lớp để thu hút và phát huy khả năng tích cực học tập của học sinh .
Hơn nữa trong thực tế hiện nay, nhiều phụ huynh có tâm lí không thích cho con học văn ,chỉ tập trung học toán và các môn khoa học tự nhiên, bản thân học sinh nhiều em ngại học văn .Tâm lí đó có thể một phần do cách giảng dạy của người thầy, một phần do nhận thức của phụ huynh .Từ thực tế ấy xảy ra thực trạng là học sinh chưa yêu thích môn học ,do vậy việc đổi mới giảng dạy ngữ văn nói chung và phần CDDC nói riêng là cần thiết. 
Trước khi viết SKKN này, tôi đã khảo sát trên 75 em học sinh lớp 7 trường THCSThị trấn Thanh ba1. Với câu hỏi trắc nghiệm về lí do yêu thích học phần CDDC, về khả năng vận dụng trong cuộc sống, trong giao tiếp hàng ngày và về phương pháp giảng dạy của giáo viên…kết quả thu được như sau: 


Nội dung hỏi
Trả lời

Có
Không
Em có yêu thích làn điệu dân ca không?
70=93%
5=7%
Em thích học phần CDDC không?
64=85 %
11=15%
Em có thường xuyên vận dụng lời ăn tiếng nói của CDDC không ?
26=34,7%
49=65,3%
Phương pháp giảng dạy hiện hành em thấy có hợp lí không ?
55=73,4%
20=26,6%

Về kết quả bài kiểm tra phần CDDC 75/75học sinh ,cụ thể như sau :
Số bài giỏi : 19 =25,3% ; bài khá :31= 41,4% ; bài TB :19=25,3% ;dưới TB :6 =8%.
Với câu hỏi khám phá, đặt tình huống : “ Em thích thầy cô bổ sung thêm những gì trong giảng dạy ” .Với câu hỏi này, tôi đã nhận được một số đề xuất khá thú vị và có ý nghĩa thiết thực như :
Các thầy cô nên hát minh hoạ (nếu bài ca dao có tiếng đệm tiếng láy )
Được đi thực tế nghe, xem hát các làn điệu dân ca. 
Nhà trường tổ chức câu lạc bộ dân ca để các em được thể hiện .
Tựu chung lại : từ thực tế trên cho thấy đa số học sinh đều yêu thích phần văn học này. Đó là một thuận lợi cho việc nghiên cứu SKKN. Nhưng bên cạnh đó còn cho thấy ,mặc dù đã tích cực đổi mối phương pháp giảng dạy nhưng khi dạy phần văn học này ,giáo viên cần bổ sung thêm một số nội dung để thực sự làm nổi bật đặc trưng của CDDC đó là tính diễn xướng, lối trữ tình trò chuyện, từ đó làm nổi bật chủ thể trữ tình ở mỗi lời ca, mỗi bài ca .
Như vậy, nguyên nhân chính là người giáo viên chưa thực sự đặt CDDC đúng mảnh đất của nó ,chưa làm cho CDDC ở đúng vị trí phô bà, diễn xướng mà vẫn bị gò bó trong câu chữ thuyết trình của người giáo viên nên tự thân CDDC chưa ăn sâu vào trí tuệ, tâm hồn mỗi học sinh.
Thiết nghĩ nếu không có sự đổi mới trong phương pháp giảng dạy thì chúng ta chưa thực sự khơi gợi hết vẻ đẹp vốn có của CDDC, vô tình chúng ta đã tước bỏ đi những vẻ đẹp mà cha ông ta đã gửi gắm trong đó ,mỗi bài CDDC chỉ là những bài văn đơn điệu về một thể loại văn học .
2. Cơ sở để giải quyết vấn đề .
a. Cơ sở lí luận :
Căn cứ vào thực trạng đã khảo sát, hơn nữa phần CDDC không được dạy nhiều trong chương trình toàn cấp học, do đó chỉ với bốn nội dung và trong hai tuần học, người giáo viên càng phải cố gắng thâm nhập để có thể truyền tải hết nội dung ,giá trị nghệ thuật của cả phần CDDC, giúp học sinh có cái nhìn tổng quát về một bộ phận văn học có ý nghĩa làm tiền đề cho thể loại thơ trữ tình sau này.Trong nền văn học Việt Nam, nhiều nhà thơ nổi tiếng như Hồ Xuân Hương, Nguyễn Du, Bà Huyện Thanh Quan, Nguyễn Khuyến, Xuân Diệu, Hồ Chí Minh, Tố Hữu…đã rất thành công khi vận dụng thể thơ lục bát dân tộc và những câu ca dao vào các sáng tác của mình. Do vậy ,tuy phần CDDC không được giảng dạy nhiều trong chương trình nhưng nó có ý nghĩa, vị trí quan trọng trong cách nhìn tổng thể của chương trình cấp học .
b. Quan điểm của bản thân :
Phần CDDC có ý nghĩa quan trọng như các phần, các nội dung học khác trong chương trình Ngữ văn bậc THCS. Phần học này không chỉ có ý nghĩa nhằm củng cố kiến thức văn học cho học sinh mà còn mang tính hữu ích, ứng dụng, góp phần tạo ra kiến thức tổng thể có hệ thống về môn học, ngoài ra còn góp phần hoàn thiện nhân cách để một người học sinh phát triển toàn diện về tri thức, biết cảm nhận cái hay cái đẹp của thể thơ dân tộc. Do vậy bản thân nhận thấy đây là một vấn đề thiết thực cần được thực hiện trong giảng dạy môn Ngữ văn THCS. Theo tôi, để giảng dạy tốt phần CDDC giáo viên cần chú trọng thực hiện các bước theo quy trình như sau thì giờ dạy sẽ có hiệu quả :
Bước 1: chuẩn bị (về tư liệu, thiết bị ; về kiến thức)
Bước 2: giảng dạy trên lớp (là bước quan trọng )
Bước 3: luyện tập và hướng dẫn về nhà 

 3. Quá trình thực nghiệm những giải pháp mới . 
 a. Các hoạt động để giải quyết vấn đề.
 	Trước hết người giáo viên phải hướng dẫn để học sinh hiểu khái niệm thế nào là CDDC và nội dung, nghệ thuật của thể loại văn học này. Ví dụ có thể cho học sinh tham khảo một số ngữ liệu sau :
-Trúc xinh trúc mọc bờ ao 
 Em xinh em đứng nơi nào cũng xinh .
 
-Trống cơm khéo vỗ nên vông 
 Một bầy con sít lội sông đi tìm 
Thương ai con mắt lim dim 
 Một bầy con nhện đi tìm giăng tơ
Thương ai duyên nợ tang bồng .
Từ ngữ liệu này có thể cho học sinh hiểu thế nào là ca dao ?(ca:hát (có nhạc ); 
dao: hát (không có nhạc ) .Cadao là lời thơ (gồm cả những bài thơ dân gian )mang phong cách nghệ thuật, (2ngữ liệu trên ) .
Từ những bài ca dao ấy, cha ông chúng ta đã thêm những tiếng đệm, tiếng láy và chúng trở thành những bài dân ca .
Ví dụ: cây trúc xinh (tang tình là ) cây trúc mọc, cây trúc mọc bên bờ ao, chị hai xinh (tang tình là ) chị hai đứng, đứng (một mình ) (qua lới như) cũng xinh .
Hoặc: (Tình bằng) có cái trống cơm khen ai khéo vỗ (ấy mấy) vông nên vông, (ấy mấy) vông nên vôn. Một bầy (tang tình ) con sít nó mới lội sông nó mới đi tìm …
Hai bài ca dao trên khi được thêm tiếng đệm tiếng láy (tức có cả lời như ca dao) thêm cả nhạc thì trở thành dân ca. (Đó là những làn điệu dân ca quan họ Bắc Ninh ).
Như vậy thuật ngữ là hai nhưng thực ra chỉ là một, người ta gọi là ca dao dân ca .
Từ đó học sinh sẽ hiểu CDDC là những thuật ngữ tương đương, chỉ các thể loại trữ tình dân gian, kết hợp nhạc và lời, diễn tả đời sống nội tâm của con người.Tiếp đó giáo viên có thể liên hệ cho học sinh thấy một số nhà thơ hiện đại đã viết theo thể thơ dân gian, đến nay một số câu thơ, bài thơ người đọc cứ ngỡ là CDDC, ví dụ :
 -Tháp Mười đẹp nhất bông sen 
 Việt Nam đẹp nhất có tên Bác Hồ.
 (Bảo Định Giang )
 -Trên trời mây trắng như bông 
 ở dưới cánh đồng bông trắng như mây 
 Mấy cô má đỏ hây hây 
 Đội bông như thể đội mây về làng. (Ngô Văn Phú )
Sau khi hiểu khái niệm CDDC, người thầy có thể cung cấp những hiểu biết cơ bản về nội dung và nghệ thuật của CDDC.Về nghệ thuật CDDC chủ yếu dùng lời ăn tiếng nói hằng ngày của nhân dân, sử dụng lối ví von, từ ngữ dễ hiểu, kết cấu đối đáp, trùng lặp …để diễn tả tư tưởng tình cảm của người lao động .Về nội dung, trong chương trình học bốn nội dung (4 chùm bài CDDC) đó là những câu hát vế tình cảm gia đình,những câu hát về tình yêu quê hương đất nước, những câu hát than thân và những câu hát châm biếm .Đây là bốn nội dung tiêu biểu của CDDC.
Từ việc hiểu bốn nội dung ấy người thầy vận dụng linh hoạt trong từng bài dạy và cần thực hiện một số bước cơ bản sau:
Bước 1: Xác định chủ thể trữ tình (đối tượng trữ tình của bài ca) 
Muốn xác định chủ thể trữ tình, học sinh cần trả lời câu hỏi: lời của bài ca dao là lời của ai ?
Trong ca dao có một số kiểu nhân vật trữ tình: người vợ, người mẹ, người chồng ,người con …trong quan hệ giađình . Chàng trai, cô gái trong quan hệ tình bạn tình yêu .Người phụ nữ … trong quan hệ xã hội . Ví dụ bài ca dao : 
 Công cha như núi ngất trời 
 Nghĩa mẹ như nước ngời ngời biển đông 
 Núi cao biển rộng mênh mông 
 Cù lao chín chữ ghi lòng con ơi .
Học sinh sẽ xác định chủ thể trữ tình của bài ca dao là người mẹ, cụ thể là lời của người mẹ nói với con khi ru con, căn cứ vào lời của bài ca thấy như vậy .
Hoặc bài ca dao : 
 Nước non lận đận một mình 
 Thân cò lên thác xuống ghềnh bấy nay 
 Ai làm cho bể kia đầy 
 Cho ao kia cạn cho gầy cò con .
Lời của bài ca là lời của người lao động, họ than thở về nỗi gian lao khó nhọc vất vả trong xã hội xưa .
Bước 2. Sau khi đã xác định được chủ thể trữ tình, người giáo viên hướng dẫn học sinh cảm nhận cách phô diễn tình ý của CDDC (Tức là nghệ thuật :lời ca ,giọng điệu, hình ảnh ,các biện pháp nghệ thuật được sử dụng trong bài ca )
Ví dụ như ở bài ca dao (1)giáo viên có thể hỏi học sinh :
Em hãy chỉ ra cái hay về ngôn ngữ ,hình ảnh ,âm điệu của bài ca ? 
Từ sự dẫn dắt gợi mở của người thầy, học sinh sẽ phát hiện ra lối ví von so sánh quen thuộc của CDDC, ngoài ra nghệ sĩ dân gian còn sử dụng từ chỉ mức độ tuyệt đối (ngất trời, ngời ngời) và lặp hai lần từ” trời biển” như một ý nghĩa biểu tượng .
Bài ca dao (2) có thể dùng câu hỏi sau :
Em nhận xét gì về cách dùng từ ngữ của nghệ sĩ dân gian?
Học sinh sẽ chỉ được các từ láy lận đận,các từ đối lập :nước non – một mình, thân cò – thác ghềnh, lên – xuống ,đầy – cạn. Ngoài ra còn các từ biểu cảm :thân cò, cò con; câu hỏi ở cuối bài ca .
Bước 3.Từ cách phô diễn tình ý giúp học sinh cảm nhận nội dung diễn tả của bài ca. 
Bài (1) có thể hỏi: Các từ ngữ hình ảnh ấy nghệ sĩ dân gian nhằm diễn tả điều gì?
Bài(2) có thể hỏi : Cách dùng từ láy, từ đối lập, từ biểu cảm …nhằm diễn tả điều gì? 
Học sinh sẽ dễ dàng nhận ra ở bài (1) là tình cảm đối với cha mẹ và lời nhắc nhở về bổn phận đạo làm con (dùng hình ảnh ví von biểu hiện công cha nghĩa mẹ, lấy những cái to lớn mênh mông vĩnh hằng của thiên nhiên làm hình ảnh so sánh nhằm tăng thêm sự lớn lao cao rộng của công cha nghĩa mẹ và công ơn sinh thành nuôi dạy …).Bài(2) có tác dụng khắc hoạ rõ nét những hoàn cảnh khó khăn ngang trái ,một mình phải lận đận giữa nước non, gợi sự gieo neo khó nhọc cay đắng của con cò, hình ảnh con cò trở thành biểu tượng chân thực và xúc động về người lao động xưa .
Bước 4. Liên hệ với những bài ca dao cùng chủ đề, kết hợp giới thiệu CDDC địa phương.
Tác dụng của phần này giúp học sinh khắc sâu kiến thức và mở rộng nâng cao kiến thức đã học, hơn nữa giúp học sinh có cách nhìn nhận vấn đề một cách cao rộng và khái quát hơn .
Bài ca dao (1)có thể liên hệ với những bài ca sau :
 - Công cha như núi Thái Sơn 
 Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra …
 - Cha mẹ nuôi con bằng trời bằng bể …
 - Ơn cha nặng lắm ai ơi…
Bài ca thứ (2)có thể liên hệ với những bài ca sau:
 - Con cò mà đi ăn đêm …
 -Trời mưa quả dưa vẹo vọ …
 - Cái cò cái vạc cái nông … 

b.Một số giải pháp để giải quyết vấn đề.

Sau đây cá nhân tôi đưa ra một số giải pháp để mỗi người giáo viên có thể giảng dạy tốt hơn nữa phần CDDC.
*Một là: người giáo viên phải hiểu thấu đáo nội dung, nghệ thuật, đặc trưng, chức năng … của CDDC
+Về nội dung, có thể quy CDDC về hai đề tài lớn: đề tài than thân và đề tài về tình yêu.
Về đề tài than thân: chủ yếu là tiếng hát than thân phản kháng . 
Về đề tài tình yêu: CDDC biểu hiện tình cảm trong gia đình, tình yêu quê hương đất nước, tình yêu nam nữ. Có thể nói toàn bộ CDDC cổ truyền hiện có là cả một kho tàng đồ sộ, căn bản chỉ là hai tiếng hát đó, và những biến tấu muôn dạng, muôn hình muôn vẻ . Hai đề tài trên đã bao quát được toàn bộ cuộc sống nhân dân và trở thành “pho lịch sử nhân dân”(Gô-gôn văn hào Nga).
+Về chức năng .Theo F.Hêghen “CDDC là một trong những dòng chính của thơ ca trữ tình “.Chức năng thẩm mĩ độc đáo của CDDC là diễn tả đời sống tâm hồn của nhân dân . Các nhân vật trữ tình có thể là cô gái, chàng trai trong tình yêu đôi lứa, người phụ nữ người lao động, người thợ trong công việc, người con gái, con dâu trong quan hệ hôn nhân, gia đình .Đó chính là chức năng trữ tình của CDDC .
Hơn nữa CDDC hơn các thể loại văn học khác là chức năng sinh hoạt : CDDCdùng để hát và còn phục vụ cho hoạt động lao động (đua thuyền, kéo lưới ).
+Về thi pháp : CDDC chủ yếu là thể thơ lục bát, dùng lối trữ tình trò chuyện và các kiểu cấu tứ gắn liền với nó .
Trong việc sử dụng ngôn ngữ : CDDC là thể loại kết tinh lời ăn tiếng nói của quần chúng nhân dân nên ngôn ngữ giản dị, tự nhiên sinh động .
Trong cách phô diễn tình ý: chủ yếu dùng thể cổ điển như phú(trình bày và kể lại sự việc),thể tỉ (so sánh ),thể hứng (tức cảnh sinh tình ).
Tóm lại để giảng dạy CDDC người giáo viên cần nắm được các vấn đề về hệ đề tài, chức năng, thi pháp của CDDC để thâm nhập thấu đáo mỗi bài ca.
*Hai là :giáo viên hướng dẫn học sinh có sự chuẩn bị kĩ càng trước khi đến lớp ,để học sinh có điều kiện tham gia tiếp thu bài giảng một cách có hiệu quả nhất .
*Ba là :Giáo viên tổ chức hướng dẫn học sinh tích cực học tập bằng phương pháp linh hoạt ,thực hiện cơ bản bốn bước trên .
*Bốn là : Bài giảng sẽ thành công và đạt hiệu quả tối đa nếu người giáo viên biết sử dụng đồ dùng thiết bị phù hợp như cho học sinh xem băng đĩa hình về quê hương làng cảnh ở địa phương, những cử chỉ hành động biểu hiện tình cảm mẹ con (các hình ảnh càng gần gũi quen thuộc càng có giá trị );họăc cho học sinh thưởng thức các làn điệu dân ca qua băng hình; hoặc do chính giáo viên thể hiện …
4. Kết quả đạt được nhờ SKKN mới :
SKKN được áp dụng ở trường THCS Thị Trấn Thanh Ba1 trong hai năm gần đây, kết quả cho thấythông qua mỗi bài giảng CDDC học sinh thêm yêu thích và hứng thú học tập. Đặc biệt khi kết hợp giảng dạy CDDC và ngoại khoá văn học về vấn đề này ,học sinh tỏ ra rất tích cực tham gia . Các giờ giảng văn và giảng CDDC bước đầu đạt kết quả cao .
So với thực trạng ban đầu chưa áp dụng SKKN đến nay thấy số lượng học sinh yêu thích học tập bộ môn tăng lên. Cụ thể điều tra trên 75 học sinh, trước và sau khi thực hiện SKKN, kết quả như sau :

 Nội dung 
Thực trạng ban đầu 
Kết quả đạt được nhờ SKKN đem lại 
Em có yêu thích làn điệu dân ca 
70/75 =93%
75/75 =100%(tăng 7%)
Em thích học phần CDDC 
64/75 =85%
75/75 =100%(tăng 15%)
Em có thường xuyên vận dụng lời ăn tiếng nói của CDDC 
26 =34,7%
60/75 =85,7%(tăng 51%)
Phương pháp giảng dạy hiện hành em thấy hợp lí 
55/75 =73,4%
75/75 =100%(tăng 26,6%)

Về kết quả bài kiểm tra :số bài giỏi tăng 18% ; số bài khá tăng 6% ; số bài TB tăng 5%,đặc biệt giảm không còn bài dưới TB .100% số bài kiểm tra đạt TB trở lên .Điều đó chứng tỏ hiệu quả mà SKKN mang lại .
SKKN đã được thử nghiệm ở trường THCS Thị Trấn Thanh Ba1 và được tổ chuyên môn triển khai thực hiện trong khi giảng dạy bộ môn Ngữ văn phần CDDC ở lớp 7,và tổ chuyên môn cùng nhà trường đưa vào vận dụng trong giảng dạy .
5. Bài học kinh nghiệm: 
SKKN này sẽ tiếp tục được sử dụng ở tổ nhóm bộ môn và đưa vào vận dụng giảng dạy trong thời gian tiếp theo .
Giáo viên bộ môn Ngữ văn nhà trường sẽ dạy theo quy trình mới với bốn bước cơ bản sau đối với mỗi bài CDDC :
1.Xác định chủ thể trữ tình của bài ca .
2.Cảm nhận cách phô diễn tình ý của bài ca .
3.Nội dung của bài ca .
4.Liên hệ với những bài ca cùng chủ đề –liên hệ CDDCđịa phương .
Tuy nhiên ngoài bốn bước cơ bản trên ,người giáo viên đứng lớp cần vận dụng linh hoạt đối với mỗi bài dạy ,hoặc có thêm những bước nhỏ khác để dẫn dắt học sinh con đường tiếp cận nhanh nhất đối với mỗi bài ca …để giờ giảng văn đạt kết quả cao.
SKKN đạt được hiệu quả :nếu áp dụng SKKN này ,học sinh sẽ tiếp cận nhanh hơn đối với mỗi bài CDDC.Hơn nữa sau khi học phần CDDC học sinh không chỉ tích luỹ được phần kiến thức , mà còn được bồi dưỡng tâm hồn ,tình cảm về tình yêu quê hương đất nước, tình cảm gia đình, tình cảm bạn bè thầy cô ...Góp phần giúp người học cảm nhận cái hay cái đẹp mà CDDC đem lại , từ đó học sinh sẽ tạo được nét đẹp trong văn hoá ứng xử, hướng tới vẻ đẹp Chân –Thiện –Mĩ .Như vậy mỗi bài giảng sẽ thu hút tâm linh người học ,chứ không còn là những bài giảng văn khô khan thuần tuý là cung cấp tri thức văn học .


 III. Kết luận chung và kiến nghị .

1. Kết luận chung :
“Phương pháp giảng dạy CDDC ở bậc THCS “ là một vấn đề tuy không lớn lắm nhưng là phần văn học quan trọng, làm tiền đề cho việc phân tích thẩm bình thể loại trữ tình. Giảng dạy CDDC nếu người giáo viên làm tốt là đã thực hiện được các chức năng cơ bản của văn học, đó là chức năng nhận thức ,chức năng thẩm mĩ ,chức năng giáo dục và bồi dưỡng tình cảm.Thông qua giảng giải phân tích một cách khoa học ,người giáo viên đã giúp học sinh hiểu đúng ,hiểu rõ và hiểu sâu tác phẩm .Trên cơ sở hiểu đúng mà giáo viên bình xét một cách tinh tế ,nghệ thuật, làm cho học sinh cảm thụ được cái hay cái đẹp của tác phẩm .Qua đó giáo dục bồi dưỡng tư tưởng tình cảm tâm hồn cho người học một cách gián tiếp thông qua việc giảng bình khoa học và nghệ thuật chứ không phải là sự giáo dục tư tưởng trực tiếp ,khô khan hoặc “chắp đuôi “ khiên cưỡng .
SKKN này mới chỉ áp dụng ở trường THCS Thị Trấn Thanh Ba1,nhưng đã đem lại thành công nhất định .SKKN có thể như một định hướng để người giáo viên có cách tiếp cận nhanh nhất với những bài CDDC và truyền tải kiến thức nhẹ nhàng mà có hiệu quả đối với người học .Bước đầu tìm ra lối đi chung cho việc phân tích bình giảng CDDC,học sinh sẽ hứng thú hơn trong học tập phần CDDC và có điều kiện học tốt hơn các thể loại văn học trữ tình khác.
SKKN có thể áp dụng trong tất cả các nhà trường THCS đối với giáo viên giảng dạy Ngữ văn phần CDDC lớp 7.
Tuy nhiên do điều kiện thời gian và năng lực còn hạn chế nên SKKN mới dừng lại ở cấp học THCS, SKKN sẽ được áp dụng ở cấp học cao hơn nếu có điều kiện .Bởi vì ở bậc học THPT,phần Văn học dân gian ,nhất là CDDC được học với số lượng thời gian lớn trong chương trình lớp 10. Người viết SKKN này sẽ tiếp tục nghiên cứu để có thể mở rộng vấn đề sang giảng dạy thơ ca trữ tình trên nền trữ tình của CDDC.
2. Đề xuất –kiến nghị 
SKKN đã được áp dụng 2 năm ở trườngTHCSThị Trấn Thanh Ba1 và đã đạt được một số thành công nhất định .Tuy nhiên để SKKN được 

File đính kèm:

  • doccadao danca.doc
Đề thi liên quan