Phương pháp phân tích, cảm nhận nhân vật trong tác phẩm tự sự

doc12 trang | Chia sẻ: haohao | Lượt xem: 1543 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Phương pháp phân tích, cảm nhận nhân vật trong tác phẩm tự sự, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
PHƯƠNG PHÁP PHÂN TÍCH, CẢM NHẬN NHÂN VẬT
TRONG TÁC PHẨM TỰ SỰ

Phần 1: NHÂN VẬT TRONG TÁC PHẨM TỰ SỰ

I.  Nhân vật và ý nghĩa của việc phân tích nhân vật trong tác phẩm tự sự
 1. Nhân vật trong tác phẩm tự sự 
 -  Khái niệm: Nhân vật văn học là đối tượng thường là những người được miêu tả trong tác phẩm văn học bằng những phương tiện văn học.
 -  Nhân vật trong văn học rất phong phú: Nhân vật có tên và nhân vật không tên. Trong thần thoại nhân vật có thể là thần , bán thần. Trong chuyện ngụ ngôn hay những chuyện viết cho thiếu nhi nhân vật thương là những con vật, đồ vât.
2. Ý nghĩa của việc phân tích nhân vật trong tác phẩm tự sự 
 Trong tác phẩm tự sự, nhà văn “nói” qua nhân vật. Nhân vật chính là nơi mang chỗ nội dung phản ánh, tư tưởng, chủ đề của tác phẩm là nơi kí thác quan niệm về con người, về nhân sinh của nhà văn.
 Phân tích nhân vật trở thành con đường quan trong nhất để đi đến giá trị hiện thực, nhân đạo của tác phẩm, để nhận ra lí tưởng thẩm mỹ của nhà văn.
Nhân vật được coi là (con đẻ) tinh thần của nhà văn, nên phân tích nhân vật còn để nhận ra tài năng, đặc điểm, bút pháp nghệ thuật của nhà văn.
II. Các phương diện cơ bản khi phân tích nhân vật trong tác phẩm tự sự
 Một nhân vật văn học thành công bao giờ cũng mang một tính cách, số phân riêng, một cách trung nhất, muốn phân tích nhân vật tức là phân tích đặc điểm tính cách của nhân vật chúng ta cần căn cứ vào những chi tiết có liên quan đến nhân vật trong tác phẩm để từ mà tìm hiểu suy luận, tìm ra đặc điểm, tính cách của nhân vật. Ở tác phẩm tự sự, những chi tiết có giá trị góp phần thể hiện đặc điểm tính cách nhân vật, lai lịch, ngoại hình, ngôn ngữ, nội dung, hành vi “cử chỉ, hành động” của nhân vật.
1. Lai lịch 
Đây là phương tiện đầu tiên góp phần chi phối đặc điểm tính cách cùng cuộc đời nhân dân. Lai lịch có quan hệ khá trực tiếp và quan trong với đường đờì của một người cũng như mục đầu tiên trong bản “ sơ yếu li lịch” ta thường khai là thành phần xuất thân và hoàn cảnh gia đình. Hoàn cảnh mồ côi từ nhỏ, hành vi vô giáo dục khi ở với người bác họ (để rồi bị đuổi ra khỏi nhà) bằng những thành tích bất hảo của Xuân Tóc đỏ trong cuộc sống lang thang hè đường xó chợ đã góp phần tạo nên tính cách lưu manh, láu lỉnh của Y sau này. Chí phèo ngay từ khi được sinh ra đã bị ném khỏi cuộc sống, đã là đứa trẻ hoang không biết bố mẹ chẳng có cửa nhà. Hoàn cảnh xuất thân ấy đã góp phần tạo nên cô độc thê thảm của Chi. Tính cách, số phận được lí giải một phần bởi thành phần xuất thân, hoàn cảnh gia đình và điều kiện sinh hoạt trước đó.
2. Ngoại hình. 
Tục ngữ Việt nam có câu: “Xem mặt mà bắt hình rong” trong văn học, miêu tả ngoại hình chính là một biện pháp của nhà văn nhằm hé mở tính cách nhân vật. Một nhà văn có tài thường chỉ qua một số nét phác hoạ chấm phá có thể giúp người đọc hình dung ra diện mạo, tư thế cùng bản chất của nhân vật nào đó. Trong tác phẩm “Tắc đèn của Ngô Tất Tố” chị dậu được miêu tả có khuôn mặt trái xoan với cái nhanh nhẩu của đôi mắt sắc ngọt, cái xinh xắn của cặp môi đỏ tươi, cái min màng của nứơc ra đen giòn. Khuôn mặt ấy khiến người đọc hình dung về chị Dậu đó là một người khoẻ khoắn đảm đang, trong chuyện ngắn “Chí Phèo” những vết sẹo ngang dọc trên khuôn mặt của Chí cùng với những nét chạm trỗ ở ngực tự có đã nói lên rất nhiều… Phải chăng cái ngoại hình biến dạng, kỳ dị ghớm ghiếc kia như đã muốn trưng ra quá khứ dữ dằn, và nội tâm tha hoá biến chất của CHí Phèo.
Ở chuyện ngắn “vi hành”, mượn lời người con trai (đôi nam nữ thanh niên người Pháp đi trên toa xe điện ngầm) tác giả Nguyễn Ái Quốc đã phác hoạ chân dung Khải Định “ Chẳng phải vẫn cái mũi tẹt ấy vẫn đôi mắt xếch ấy, vẫn cái mặt bưng như vỏ chanh đấy à?” Các chi tiết này ám chỉ thật sau cay một tính cách hèn kém, chẳng có mấy thiên lương cùng lối sống xa hoa truỵ lạc của ông vua bù nhìn An Nam.
Trong phân tích nhân vật, cần qua các chi tiết ngoại hình mà đi sâu vào nội tâm vào bản chất của nhân vật.
3. Ngôn ngư 
Qua lời ăn tiếng nói của một người, chúng ta có thể nhận ra trình độ văn hoá, nhận ra tính cách của người ấy. Ngôn ngữ của nhân vật trong tác phẩm văn học được có thể hoá cao độ, nghĩa là mgnag đạm dấu ấn của một cá nhân. Nhân vật cô Hồng trong tiểu thuyết “Số đỏ” của VŨ Trọng PHụng hễ cứ mở miệng ra là gắt: “ Biết rồi, khổ lắm, nói mãi” mặc dầu ông ta chẳng biết cho ra đầu ra đũa việc gì cả. Cho đến khi trở thành “ Nhà cải cách thẩm mĩ”, “ Đốc tờ Xuân”, “ Giáo sư quần vợt”, “Cố vấn báo gõ mõ”…. đựơc cả xã hội thượng lưu thành thị trọng vọng, Xuân tóc đỏ vẫn đầu cửa miệng mấy chữ “Mẹ kiếp”, “ nước mẹ gì” điều ấy chứng tỏ cái tính cách lưu manh, vô học của y không sao gột rửa nổi. Thông thường, mỗi con người thường theo tính khí mà có khẩu khí. Con người làm sao thì lời ăn tiếng nói làm vậy. Vì thế khi phân tích nhân vật ta cần đặc biệt chú ý phân tích nhân vật.
4. Nội tâm 
Là thế giới bên trong của nhân vật gồm cảm giác, cảm xúc tình cảm, tâm lí, suy nghi… của con người. Thế giới nội tâm của con người rất sâu kín, phong phú, phức tạp. Ngòi bút của nhà văn có khả năng miêu tả được những ngõ ngách xâu kín của nội tâm con người từ những điều thuộc phạm vi ý thức đến những điều trong cõi tiềm thức, vô thức. Qua đó ta có thể xét đoán được tính cách nhân vật. Ví dụ đoạn miêu tả nội tâm của Chí Phèo sau cơn ốm: “Tỉnh dậy hắn thấy hắn già mà hắn vẫn còn cô độc. Buồn thay cho đời! có lí nào như thế đươc? Hắn đã già rồi hay sao? Ngoài bốn mươi tuổi đầu… Dẫu sao đó không phải là tuổi mà người ta mới bắt đầu sửa soạn. Hắn đã tới cái dốc bên kia của đời. Ở những người như hắn chịu đựng biết bao nhiêu là chất độc, đầy đoạ cực nhọc, mà chưa bao giờ ốm, một chận ốm có thể là dấu hiệu báo rằng cơ thể hắn đã hư hỏng nhiều. Nó là một cơn mưa gió cuối thu cho biết trời trở rét nay mùa đông đã đến. Chí Phèo hình như đã trông thấy trước tuôi già của hắn, đói rét và ốm đau, và cô độc, cái này còn sợ hơn đói rét và ốm đau.
Cũng may Thị Nở vào nếu không vào cứ để hắn vẩn vơ nghĩ mãi thì đến khóc được mất. Qua suy nghĩ của Chí Phèo ta có thể nhận ra một Chí Phèo thứ hai – “Chí không còn là một con Quỷ giữ của làng Vũ Đại nữa mà là một con người bình thường như bao con người khác: Bồn lo trước tuổi già ập đến, cảm thấy cô đơn và sợ cô đơn.
5.Cử chỉ hành động. 
Đây là chi tiết quan trong nhất trong việc tìm hiểu phân tích tính cách nhân vật. Con người trong cuộc đời cũng như nhân vật trong tác phẩm, trước hết là con người hoạt động, hành động. Trong môi trường tự nhiên và xã hội, trong quan hệ với người khác, với công việc, con người phải hành động. Hành động của con người được thể hiện qua việc làm, hành vi. Nhân vật trong tác phẩm cũng vây, con người thế nào sẽ có hành vi thế ấy. 
Ví dụ: Chỉ cần qua cách “ ghế trên ngồi tót sỗ sàng” nhân vật Mã Giám Sinh đã để lại chân tướng của một con người thiếu văn hoá, lịch sự… Qua hành động “rỗ gông” bất chấp lời doạ nạt của bọn lính, người đọc nhận ra ở Huấn Cao một khí phách hiên ngang…
Tóm lại: Muốn phân tích nhân vật, ta phải chú ý đến những chi tiết có liên quan đến nhân vật từ lai lich, ngoại hình, nội tâm đến ngôn ngữ hành vi của nhân vật. Tuy nhiên không phải bất cứ nhân vật nào cũng được nhà văn thể hiện đầy đủ các phương diện này. Có chỗ nhiều, có chỗ it, có chỗ đâm, chỗ nhạt. Bởi thế khi phân tích cần tập trung xoáy sâu vào các phương diện thành thông nhất trong tác phẩm. cũng không cứ phải tuần tự theo năm phương diện như thế mà nên sắp xếp theo thực tế cho bài làm văn của minh hâp dẫn.

Phần 2: PHƯƠNG PHÁP CHUNG
I. Mở bài : 
 - Giới thiệu xuất xứ của nhân vật cần phân tích ( nhân vật trong tác phẩm nào? Của ai? Sáng tác trong hoàn cảnh nào?).
 - Nêu khái quát đặc điểm của nhân vật.
II. Thân bài : 
 - Bước 1 : Giới thiệu khái quát về nhân vật ( từ 1 đến 2 câu).
 - Bước 2 : Triển khai phân tích (hay cảm nhận ) các đặc điểm của nhân vật theo yêu cầu của đề ( Lai lịch, ngoại hình, tính cách, số phận…) 
 * Lưu ý : 
 + Tùy vào từng đặc điểm của nhân vật có trong tác phẩm để phân tích , cảm nhận.
 + Mỗi một đặc điểm của nhân vật được phân tích (hay cảm nhận), được viết thành một hay nhiều đoạn văn.Các đoạn văn có thể trình bày theo nhiều cách khác nhau ( diễn dịch, quy nạp hoặc tổng phân hợp….) và được liên kết với nhau bằng các câu từ chuyển ý.
 + Khi phân tích, cần chọn lọc dẫn chứng tiêu biểu để chứng minh làm rõ từng đặc điểm của nhân vật ( theo nguyên tắc : “nói có sách, mách có chứng”).
 - Bước 3: Đánh giá chung về :
 + Nghệ thuật xây dựng và miêu tả nhân vật của nhà văn.
 + Vai trò của nhân vật trong việc thể hiện tư tưởng, chủ đề của tác phẩm và quan điểm nghệ thuật của nhà văn. 
 III. Kết thúc vấn đề : 
 - Tính điển hình của nhân vật
 - Nhận xét đánh giá thành công, hạn chế (nếu có) về xây dựng nhân vật.v.v

Phần 3. MỘT SỐ NHÂN VẬT TIÊU BIỂU TRONG CÁC TP TỰ SỰ NGỮ VĂN 12
I. Các nhân vật trong truyện ngắn “Vợ nhặt” của Kim Lân: 
1. Nhân vật Tràng :
 + Tràng là một trong ba nhân vật trung tâm trong truyện ngắn « Vợ nhặt » của Kim Lân.
 + Xuất hiện trong tác phẩm, Tràng là một người đàn ông nghèo khổ, bất hạnh nhưng giàu tình người và khát vọng hạnh phúc. Điều đó được thể hiện qua câu chuyện nhặt vợ của anh giữa ngày đói.
 a. Về lai lịch, ngoại hình, tính cách: 
 - Tràng vốn là một gã trai nghèo, sống ở xóm ngụ cư, có mẹ già và làm nghề đẩy xe bò mướn. 
 - Tràng lại có một ngoại hình xấu xí, thô kệch với “ cái đầu trọc nhẵn”; “cái lưng to rộng như lưng gấu”; “ hai con mắt gà gà, nhỏ tí” lúc nào cũng đắm vào bóng chiều của hoàng hôn.
 - Tính tình của Tràng lại có phần “dở hơi” nhưng tốt bụng, hay vui đùa với trẻ con trong xóm.
 -> Tràng có một cảnh ngộ thật bất hạnh và tội nghiệp.
 b. Vẻ đẹp tình người và khát vọng hạnh phúc của Tràng qua câu chuyện nhặt vợ: 
 *.Tình huống nhặt vợ của Tràng :
 Tràng có vợ bằng cách “nhặt” được chỉ qua hai lần gặp gỡ, vài câu nói đùa và bốn bát bánh đúc giữa ngày đói -> Tình huống độc đáo, đùa mà thật , thật mà cứ như đùa. 
 *. Diễn biến tâm lý, tính cách ,hành động của Tràng trước và sau khi nhặt vợ: 
 - Khi nhặt vợ : 
 + Lúc đầu, khi người phụ nữ đói nghèo, rách rưới đồng ý theo không Tràng về làm vợ, Tràng không phải không biết “chợn”: “Thóc gạo này đến cái thân mình cũng chả biết có nuôi nổi không , lại còn đèo bòng”. 
 + Nhưng rồi anh ta chặc lưỡi “Chậc,kệ!”.Tràng chấp nhận đánh liều với hoàn cảnh và số phận vì : Người đàn bà cần Tràng để có một chỗ dựa qua thì đói kém, còn Tràng cũng cần người phụ nữ nghèo ấy để có vợ và để biết đến hạnh phúc.
 - Trên đường đưa vợ về nhà, Tràng thật sự vui và hạnh phúc : mặt “phớn phở”, “mắt sáng lên lấp lánh”, “miệng cười tủm tỉm”; “ Trong một lúc, Tràng như quên hết những cảnh sống ê chề, tăm tối hàng ngày, quên cả đói khát đang đe doạ…Trong lòng hắn, lúc này chỉ còn tình nghĩa với người đàn bà đi bên.Một cái gì mới mẻ, lạ lắm, chưa từng thấy ở người đàn ông ấy…” …
 - Chỉ sau một ngày “nên vợ nên chồng”. 
 + Tràng thấy mình đổi khác “ trong người êm ái , lửng lơ như người từ giấc mơ đi ra.Việc hắn có vợ đến hôm nay hắn vẫn còn ngỡ như không phải”.
 + Tràng thấy thương yêu và gắn bó với căn nhà; “Hắn đã có một gia đình.Hắn sẽ cùng vợ sinh con đẻ cái ở đấy.Cái nhà như tổ ấm che mưa che nắng…Bây giờ hắn mới thấy hắn nên người, thấy hắn có bổn phận phải lo cho vợ con sau này…”
 + Tràng muốn dự phần tu sửa căn nhà . “Hắn xăm xăm chạy ra giữa sân, hắn muốn làm một việc gì để dự phần tu sửa lại căn nhà”.
 -> Tràng đã thật sự thay đổi về số phận lẫn tính cách : từ đau khổ sang hạnh phúc, từ chán đời sang yêu đời, từ ngây dại sang ý thức.
 + Cuối tác phẩm, trong suy nghĩ của Tràng “ cảnh những người nghèo đói ầm ầm kéo nhau đi trên đê Sộp.Đằng trước có lá cờ đỏ to lắm”.Đoàn người đi phá kho thóc của Nhật và lá cờ Việt Minh.Đây là hiện thực nhưng cũng là ước mơ về một tương lai hướng về Đảng về cách mạng của Tràng và những người như Tràng.
 => Đánh giá chung về nhân vật Tràng: 
 - Kim Lân miêu tả tâm trạng nhân vật Tràng xoay quanh tình huống nhặt vợ hết sức đặc biệt.Cũng từ đó, hình tượng nhân vật Tràng có vai trò lớn trong việc thể hiện tư tưởng chủ đề của tác phẩm : Những người đói, họ không nghĩ đến cái chết mà luôn nghĩ đến sự sống.
 - Cũng qua Tràng và câu chuyện nhặt vợ của anh, nhà văn giúp người đọc cảm nhận được vẻ đẹp tâm hồn của những người dân lao động nghèo : đó là vẻ đẹp tình người và niềm tin tưởng vào tương lai.
 - Qua nhân vật Tràng, Kim Lân đã bộc lộ được khả năng miêu tả tâm lý nhân vật và ngòi bút nhân đạo sâu sắc của nhà văn.

2. Nhân vật người vợ nhặt
 - Hiện lên trong tác phẩm, người phụ nữ được Tràng nhặt về làm vợ có cảnh ngộ nghèo đói, bất hạnh nhưng lại có một khát vọng sống mãnh liệt .
 - Điều đó được thể hiện qua việc chị chấp nhận theo không một người đàn ông về làm vợ giữa ngày đói.
a. Về lai lịch, ngoại hình : 
 - Xuất hiện trong tác phẩm, người vợ nhặt chỉ là một con số không tròn trĩnh : không tên tuổi, không quê hương, không gia đình, không nghề nghiệp… 
 - Từ đầu đến cuối tác phẩm chị chỉ được gọi bằng “thị”- một cách gọi phiếm định giành cho chị và tất cả những người phụ nữ có cảnh ngộ và số phận đáng thương và tội nghiệp như chị. 
 - Chân dung của người phụ nữ ấy hiện ra ngay từ đầu là những nét không mấy dễ nhìn : đó là hình ảnh của người đàn bà gầy vêu vao, ngực gầy lép, khuôn mặt lưỡi cày xám xịt, quần áo thì rách như tổ đỉa. 
 b. Về tính cách : 
 - Trước khi trở thành vợ Tràng, thị là một người phụ nữ ăn nói chỏng lỏn, táo bạo và liều lĩnh 
 + Lần gặp đầu tiên, thị chủ động làm quen ra đẩy xe bò cho Tràng và “liếc mắt cười tít” với Tràng.
 + Lần gặp thứ hai, thị “sầm sập chạy tới”, “sưng sỉa nói” và lại còn “đứng cong cớn” trước mặt Tràng. Đã vậy, thị còn chủ động đòi ăn. Khi được Tràng mời ăn bánh đúc, thị đã cúi gằm ăn một mạch bốn bát bánh đúc. Ăn xong còn lấy đũa quẹt ngang miệng và khen ngon… 
 -> Cái đói trong một lúc nào đó nó có thể làm biến dạng tính cách của con người.--> nhà văn thật sự xót xa và cảm thông cho cảnh ngộ đói nghèo của người lao động. 
 - Khi trở thành vợ Tràng, thị đã trở về với chính con người thật của mình là một người đàn bà hiền thục, e lệ, lễ phép, đảm đang :
 + Trên đường theo Tràng về nhà: chị hiện lên với dáng vẻ bẽn lẽn đến tội nghiệp khi đi bên Tràng vào lúc trời chạng vạng ( thị đi sau Tràng ba bốn bước, cái nón rách che nghiêng, “rón rén, e thẹn” , ngượng nghịu,“chân nọ bước díu cả vào chân kia”...) -> thật tội nghiệp, đáng thương… 
 + Sau một ngày làm vợ, chị dậy sớm, quét tước, dọn dẹp cho căn nhà khang trang, sạch sẽ. -> hình ảnh của một người vợ hiền, một cô dâu thảo, biết thấu hiểu và cảm thông cho cảnh ngộ nhà chồng. 
 + Trong bữa cơm cưới giữa ngày đói, chị tỏ ra am hiểu về thời sự khi kể cho mẹ và chồng về câu chuyện ở Bắc Giang người ta đi phá kho thóc của Nhật. Chính chị đã làm cho niềm hy vọng của mẹ và chồng thêm niềm hy vọng vào sự đổi đời trong tương lai.
=> Đánh giá chung : 
 - Tóm lại, người phụ nữ không tên tuổi, không gia đình, không tên gọi, không người thân ấy đã thật sự đổi đời bằng chính tấm lòng giàu tình nhân ái của Tràng và mẹ Tràng. 
 - Xây dựng nhân vật vợ Tràng, nhà văn tố cáo xã hội đẩy con người đến cảnh ngộ rẻ rúng vì đói khát. 
3. Nhân vật bà cụ Tứ.
 - Cũng như Tràng và người vợt nhặt, bà cụ Tứ là một trong ba nhân vật trung tâm trong truyện ngắn “Vợ nhặt” của nhà văn Kim Lân…
 - Xuất hiện trong tác phẩm, bà cụ Tứ là một người mẹ già, nghèo khổ nhưng giàu tình thương con và giàu lòng nhân hậu. Điều đó được thể hiện qua diễn biến tâm trạng của bà cụ trước sự việc con trai bà nhặt được vợ giữa ngày đói : 
 a.Vài nét về cuộc đời của bà cụ : 
 Trong tác phẩm, bà cụ Tứ hiện lên là một người đàn bà nông dân, hồn hậu và có một cuộc đời thật nhiều thương cảm : nhà nghèo, goá bụa, sống gian khổ, thầm lặng.
b. Bối cảnh – tình huống và diễn biến tâm trạng của bà cụ: 
 - Bối cảnh xuất hiện của nhân vật: Bà cụ Tứ lần đầu tiên xuất hiện trong thiên truyện là lúc bóng hoàng hôn tê tái phủ xuống xóm Ngụ cư giữa ngày đói. Cùng lúc đó, người con trai đáng thương của bà làm nghề đẩy kéo xe trên huyện, đưa một người đàn bà lạ về nhà. 
 - Diễn biến tâm trạng của bà cụ trước việc Tràng nhặt vợ: 
 *. Khởi đầu , bà ngỡ ngàng - ngỡ ngàng trước việc có một người phụ nữ lạ xuất hiện trong nhà mình. Trạng thái ngỡ ngàng của bà cụ được nhà văn diễn tả bằng hàng loạt những câu nghi vấn : “Quái sao lại có người đàn bà nào ở trong ấy nhỉ? Người đàn bà nào lại đứng ngay đầu giường thằng con trai mình thế kia? Sao lại chào mình mình bằng u?...”Thái độ ngạc nhiên của người mẹ, phải chăng cũng là nỗi đau của nhà văn trước một sự thật : chính sự cùng quẫn của hoàn cảnh đã đánh mất ở người mẹ sự nhạy cảm vốn có trước hạnh phúc của con . 
 *. Sau khi hiểu ra là con trai đã có vợ, bà lão không nói gì mà chỉ “cúi đầu im lặng”- một sự im lặng chứa đầy nội tâm : đó là niềm xót xa, buồn vui, lo lắng, thương yêu lẫn lộn . Bà mẹ đã tiếp nhận hạnh phúc của con bằng kinh nghiệm sống, bằng sự trả giá của một chuỗi đời nặng nhọc, bằng ý thức sâu sắc trước hoàn cảnh. 
 - Bằng lòng nhân hậu thật bao dung của người mẹ, bà nghĩ :“Biết rằng chúng nó có nuôi nổi nhau qua được cơn đói khát này không?”.Trong chữ “chúng nó” , người mẹ đã đi từ lòng thương con trai để ngầm chấp nhận người đàn bà lạ làm con dâu của mình. 
 - Rồi tình thương lại chìm vào nỗi lo , tạo thành một trạng thái tâm lý triền miên day dứt : bà nghĩ đến bổn phận chưa tròn , nghĩ đến ông lão, đến con gái út, nghĩ đến nỗi khổ của đời mình, nghĩ đến tương lai của con …để cuối cùng dồn tụ bao lo lắng – yêu thương trong một câu nói giản dị : “ Chúng mày lấy nhau lúc này, u thương quá”
 *Đặc biệt là sau một ngày con trai có vợ, người mẹ giàu lòng thương con ấy thật sự vui và hạnh phúc trước hạnh phúc của con : bà cùng con dâu dọn dẹp, thu vén căn nhà ; trong bữa cơm ngày đói, bà toàn nói chuyện vui để xua đi thực tại hãi hùng, để nhen nhóm niềm tin vào cuộc sống cho con :“ Khi nào có tiền ta mua lấy đôi gà …”. 
 - Thật cảm động, khi Kim Lân để cái ánh sáng kỳ diệu của tình mẫu tử toả ra từ nồi cháo cám : “Chè khoán đây, ngon đáo để cơ”.Chữ ‘ngon” này không phải là xúc cảm về vật chất ( xúc cảm về vị cháo cám) mà là xúc cảm về tinh thần : ở người mẹ, niềm tin về hạnh phúc của con biến đắng chát của cháo cám thành ngọt ngào . 
 - Tuy nhiên niềm vui của bà cụ Tứ trong hoàn cảnh ấy vẫn là niềm vui tội nghiệp, bởi thực tại vẫn nghiệt ngã với nồi cháo cám “đắng chát và nghẹn bứ”. 
=> Đánh giá chung : 
 - Nhân vật bà cụ Tứ là một nhân vật tiêu biểu cho vẻ đẹp tình người và lòng nhân ái mà Kim Lân đã gửi gắm trong tác phẩm “ Vợ nhặt”.
 - Thành công của nhà văn là đã thấu hiểu và phân tích được những trạng thái tâm lý khá tinh tế của con người trong một hoàn cảnh đặc biệt .Vượt lên hoàn cảnh vẫn là một vẻ đẹp tinh thần của những người nghèo khổ. 
 =>“Vợ nhặt” là ca về tình người của những người nghèo khổ, đã biết sống cho ra người ngay giữa thời túng đói quay quắt . 
 II. Nhân vật Mỵ trong truyện ngắn “Vợ chồng Aphủ” của Tô Hoài :
- Mỵ là một trong hai nhân vật trung tâm trong truyện ngắn “Vợ chồng Aphủ” của nhà văn Tô Hoài.
 - Xuất hiện trong tác phẩm , Mỵ là một cô gái trẻ trung , có cuộc sống khổ nhục và số phận nô lệ nhưng lại tiềm tàng một sức sống và khát vọng tự do mạnh liệt. Cụ thể: 
 1. Trước khi bị bắt về làm dâu trừ nợ cho thống lý Ptra,Mỵ là một cô gái :
 - Trẻ trung,yêu đời, có khát vọng hạnh phúc. 
 - Cần cù lao động,hiếu thảo với cha. 
 - Có tài thổi kèn lá, được nhiều trai bản yêu mến… 
 -> Lẽ ra Mỵ phải được sống hạnh phúc. 
 2. Từ khi Mỵ bị bắt về làm dâu trừ nợ : 
 a.Cuộc sống cùng khổ, bế tắc của Mỵ:
 - Về thể xác : 
 + Mị bị đối xử chẳng khác gì nô lệ : bị bóc lột tận cùng sức lao động (“Tết xong thì lên núi hái thuốc phiện, giữa năm thì giặc đay, xe đay, đến mùa thì đi nương bẻ bắp, và dù lúc đi hái củi lúc bung ngô, lúc nào cũng gày một bó đay trong cánh tay để tước thành sợi. Bao giờ cũng thế, suốt năm suốt đời như thế. Con ngựa con trâu làm có có lúc , đêm nó còn được đúng gãi chân nhai cỏ, đàn bà con gái trong nhà này thì vùi đầu vào công việc cả đêm cả ngày”) 
 + Bị A Sử đánh đập hành hạ, trói đứng.
-> Mị bị đẩy vào tình trạng câm lặng , “Mị tưởng mình là con trâu, con ngựa”, thậm chí còn không bằng con trâu, con ngựa.
- Về tinh thần : 
 + Cuộc sống tinh thần của Mị trong nhà thống lí Pá Tra bị định đoạt bằng buổi cúng ma ( bị thần quyền đe dọa). 
 + Hôn nhân không tình yêu (Mị phải sống với A Sử- một người mà Mị không hề có tình yêu thương) -> với người phụ nữ, đây là bi kịch .
 + Mị bị giam hãm trong một không gian chật hẹp : ở trong cái buồng “ kín mít, có một chiếc cửa sổ một lỗ vuông bằng bàn tay, lúc nào cũng trong ra cũng chỉ thấy trăng trắng, không biết là sương hay là nắng” – căn buồng gợi lên không khí tù túng, chập hẹp như một nhà tù giam hãm cuộc đời Mị .
 + Mị mất hết cảm giác, thậm chí mất hẳn đời sống ý thức, sống mà như chết (“ lúc nào cũng cúi mặt buồn rười rượi”; “ lùi lũi như con rùa nuôi trong xó cửa”.)
=> Mị thật sự bị đẩy vào tình trạng cùng khổ về vật chất, bế tắc về tinh thần.
c. Sức sống mãnh liệt và khát vọng hạnh phúc của Mị ( thể hiện qua 3 lần Mị phản kháng chống lại số phận) :
 - Lần 1 : Mị định ăn lá ngón để tự tử -> ý thức về cuộc sống tủi nhục của mình> không chấp nhạn kiếp sống “ người-vật” -> Mị tìm đến cái chết như một phương tiện giải thoát chính là hành động để khẳng định lòng ham sống, khát vọng tự do của mình.
 - Lần 2 : Trong đêm tình xuân,Mị muốn đi chơi: 
 + Tiếng sáo gọi bạn làm Mỵ nhớ lại những tháng ngày tươi đẹp trong quá khứ .
 + Mị lấy rượu ra uống “ ừng ực từng bát”- Phải chăng Mị đang uống khát khao, mơ ước, căm hận vào lòng. 
 + Khát vọng sống bừng lên trong Mị “ Mị trẻ lắm, Mị vẫn còn trẻ, Mị muốn đi chơi”. 
 + Mị thấy phơi phới trở lại, đến góc nhà lấy ống mỡ xắn một miếng bỏ vào đĩa đèn cho sáng -> thắp sáng niền tin, từ giã tăm tối. 
 + Mị lấy váy áo định đi chơi. Bị A Sử trói vào cột nhà, Mị vẫn thả hồn theo cuộc chơi, tâm hồn Mị cứ bồng bềnh bay theo tiếng sáo… 
- Lần 3 :Đêm mùa đông, Mị cởi trói cho APhủ : 
 + Chứng kiến cảnh APhủ bị hành hạ có nguy cơ phải chết, lúc đầu Mị không quan tâm “ dù APhủ có là cái xác chết đứng đấy cũng vậy thôi” -> Phải chăng đó là chứng tích của việc Mị bị đày đoạ một cách đau đớn cả về thể xác và tinh thần làm cho Mị từ một phụ nữ nhân hậu trở thành vô cảm.
 + Khi thấy “ dòng nước mắt lấp lánh bò xuống hai hõm má đã đen xám lại” của APhủ, Mị đã xúc động.Thương mình, thương người -> Mị quyết định cởi trói cho APhủ. 
 + Mị đứng lặng trong bóng tối rồi chạy theo APhủ trốn khỏi Hồng Ngài với một lí do “ Ở đây thì chết mất”-> hành động tự giải thoát khỏi số phận tăm tối của Mị hoàn toàn mang tính tự phát : Cởi trói cho APhủ cũng chính là Mị đã cởi trói cho cuộc đời mình.Chấp nhận cuộc sống trâu ngựa và khao khát được sống một cuộc sống của con người ; khát vọng hạnh phúc đã giúp Mị chiến thắng số phận tăm tối.
* Đánh giá chung về nhân vật Mỵ: 
 - Cuộc đời, số phận và phẩm chất của Mỵ trong tác phẩm, tiêu biểu cho số phận, phẩm chất của người dân lao động nghèo miền núi Tây Bắc dưới sự áp bức, bóc lột của bọn phong kiến chúa đất và thực dân -> góp phần làm nên tư tưởng chủ đề của tác phẩm “Vợ chồng Aphủ”.
 - Cũng qua nhân vật Mỵ, người đọc cảm nhận được bút pháp “biện chứng tâm hồn” hết sức tinh tế, độc đáo và điêu luyện của Tô Hoài trong việc khắc họa chân dung của những người lao động bị áp bức bằng một cái nhìn ấm áp, đầy tin yêu và trân trọng. 

III. Nhân vật TNú trong truyện ngắn “Rừng xà nu” của Nguyện Trung Thành:
 - TNú là nhân vật anh hùng, người con vinh quang của dân làng Xôman, được xuất hiện trong tác phẩm “Rừng xà nu” bằng những nét độc đáo, giàu chất sử thi. 
 1. Về lai lịch : Tnú là người Strá, mồ côi cha mẹ từ rất sớm, được dân làng Xô Man cưu mang- đùm bọc.
 2. Phẩm chất, tính cách: 
 - Tnú đã giác ngộ cách mạng và làm liên lạc cho cách mạng từ nhỏ ,thông minh, gan dạ, giàu tự trọng... ( vào rừng cùng Mai tiếp tế cho các cán bộ;làm liên lạc, giặc vây các ngả đường thì xé rừng mà đi, qua sông lựa chỗ thác mạnh mà bơi, “vì chỗ nước êm thằng Mĩ hay phục”.- Bị giặc bắt thì nuốt luôn cái thư vào bụng, bị tra tấn không khai; một mình xông ra giữa vòng vây của kẻ thù trong tay không có vũ khí; bị giặc bắt, bị đốt mười đầu ngón tay vẫn không kêu than...- Học chữ thua Mai thì lấy đá đập vào đầu -> lòng tự trọng và ý chí quyết tâm cao.
 -> Phẩm chất anh hùng là cơ sở để làm nên hành động anh hùng của Tnú.
 - Một người biết vươn lên mọi đau đớn và bi kịch cá nhân
 +Bản thân 2 lần bị giặc bắt, bị tra tấn dã man( tấm lưng chằng chịt những vết chém, hai bàn tay bị đốt mỗi ngón chỉ còn lại hai đốt; vợ con bị giặc giết hại...) Tnú không khuất phục, kiên cường, bền gan gia nhập bộ đội để cầm súng bảo vệ dân làng, quê hương, đất nước.
 - Là người có ý thức và tinh thần kỷ luật cao: Xa bản làng ba năm, tuy nhớ nhà, nhớ quê hương, nhưng phải được cấp trên cho phép anh mới về và chỉ về đúng một đêm như qui định trong giấy phép.
 - Là một người giàu tình yêu thương người thân và quê hương bản làng:
 + Yêu thương vợ con: Ch

File đính kèm:

  • docChuyen de PP phan tich nhan vat trong TP tu su.doc