Rừng xà nu, Vợ chồng A phủ, Vợ nhặt
Bạn đang xem nội dung tài liệu Rừng xà nu, Vợ chồng A phủ, Vợ nhặt, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Rừng xà nu, Vợ chồng A phủ, Vợ nhặt Đề: "Rừng xà nu" của Nguyễn Trung Thành, "Những đứa con trong gia đình" của Nguyễn Thi và "Mảnh trăng cuối rừng" của Nguyễn Minh Châu là những truyện ngắn hay, khám phá, ca ngợi vẻ đẹp của con người Việt Nam trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nướcAnh, chị hãy so sánh để làm rõ những phám phá, sáng tạo riêng của mỗi tác phẩm trong sự thể hiện chủ đề chung của nó. BÀI LÀM"Yêu biết mấy những con người đi tớiHai cánh tay như hai cánh bay lênNgực dám đó những phong ba dữ dộiChân đạp bùn không sợ các loại sên!"Hình ảnh những con người Việt Nam ấy đã đi vào thơ ca như một niềm thơ lớn và trở thành phần hồn của mỗi người con đất Việt. Yêu biết mấy hình ảnh người dân quê tôi: cần cù trong lao động, anh hùng trong chiến đấu. Văn thơ thời kỳ kháng chiến chống Mĩ đã dựng lại cả một thời kỳ máu lửa, đi sâu tìm tòi khám phá, ngợi ca vẻ đẹp của con người. Tôi nhớ mãi mãi một Tnú, cụ Mết trong "Rừng xà nu" của Nguyễn Trung Thànn; chị Chiến, anh bộ đội tên Việt trong "Những đứa con trong gia đình" của Nguyễn Thi; và cô Nguyệt - người con gái trẻ tuổi dũng cảm trong "Mảnh trăng cuối rừng" của Nguyễn Minh Châu. Họ là hiện thân của vẻ đẹp con người Việt Nam, của sức sống dân tộc. Năm tháng trôi đi và lịch sử đã bước sang trang mới nhưng những con người ấy vẫn sáng ngời lên nhắc nhở ta về một quãng đường đầy gian khổ, đau thương, lại rất đỗi anh hùng mà đất nước mình đã đi qua. Để rồi mỗi lần đọc lại tôi không khỏi ngỡ ngàng vì người dân mình đẹp quá, dũng cảm; và lòng tôi được như sống lại những ngày còn chiến tranh bom đạn ấy.Đọc "Rừng xà nu" của Nguyễn Trung Thành, "Những đứa con trong gia đình" của Nguyễn Thi, "Mảnh trăng cuối rừng" của Nguyễn Minh Châu, hiện lên một tập thể anh hùng nhiều thế hệ đang ngày đêm chiến đấu với kẻ thù để giữ từng tấc đất, ngôi nhà cho quê hương, đất nước. Viết về đề tài chiến tranh, cả ba nhà văn đề không đi sâu vào miêu tả những đau thương mất mát của dân mình, hay tội ác tày trời của giặc mỹ mà đi vào khám phá, ca ngợi vẻ đẹp của con người Việt Nam trong chiến tranh. Tôi còn nhớ câu nói của một nhà văn nổi tiếng: Con người, tất cả ở con người. Có thể huỷ diệt được sự sống của con người nhưng không thể chiến thắng được nó. Nguyễn Trung Thành, Nguyễn Thi, Nguyễn Minh Châu viết về con người phải chăng cũng có một lòng tin như thế? Hình ảnh của Tnú, cụ Mết, Việt, chị Chiến, Nguyệt và còn biết bao con người nữa hiện ra trong cảnh sống chết từng giây, mưa bom bão đạn mà vẫn hiên ngang, sáng lên mốt vẻ đẹp phẩm chất lại thường. Họ là kết tinh của vẻ đẹp dân tộc, sức sống dân tộc. Những con người yêu nước thiết tha, chiến đấu quả cảm, quên mình vì tổ quốc ấy lại rất đỗi giản dị, sáng trong, gắn bó với từng làng, bản, thôn xóm. Bên cạnh phẩm chất anh hùng, Nguyệt trong "Mảnh trăng cuối rừng" còn sáng lên một tình yêu thuỷ chung, son sắc, đầy màu sắc lãng mạn. Các tác phẩm thời kỳ này đề đi vào khắc họa phẩm chất đẹp đẽ của con người với giọng điệu ca ngợi, hào hùng, vang vọng không khí sử thì hoành cháng. Ba tác phẩm đã dựng lên một tập thể anh hùng, nhiều thế hệ giữ hoàn cảnh chiến tranh khốc liệt, trong đó mỗi một nhân vật đều có một vẻ đẹp riêng, một tâm hồn, một cái "tôi' riêng hoà chung với cái "ta" rộng lớn ấy. "Rừng xà nu" của Nguyễn Trung Thành là một truyện ngắn xúc động, hào hùng về cuộc chiến tranh anh dũng của dân tộc Xô Man. Nhà văn đã đi sâu khám phá vẻ đẹp của những người con Tây Nguyên, những con người cả đời gắn bó với cây xà nu như gắn bó với Đảng, với cách mạng. Con người hiện lên trong trang văn của Nguyễn Trung Thành là một tập thể anh hùng nhiều thế hệ. Trang sử hào hùng cuả Tây Nguyên không phải chỉ một người viết mà là sự nối tiếp, kế tục từ đời nay sang đời khác, từ thế hệ này sang thế hệ khác. Họ đã cùng nhau dựng xây làng bản, dựng xây làng bản của một thời đất nước dựng lên. Nguyễn Trung Thành đã tìm đến miền đất núi rừng đầy đau thương, nhà văn đẫ lắng nghe họ sống để lắng nghe họ sống để ghi lại cái nhịp sống hào hùng, ghị lại vẻ đẹp tâm hồn, bản chất anh hùng của những con người giản dị, mộc mạc mà thiêng liêng cao quý. Nguyễn Trung Thành như đã trở thành người con của Tây Nguyên, của dân làng Xô Man. Khi viết "Rừng xà nu" tựa hồ ông ngợi ca, tự hào về làng mình, về quê hương của mình.Nói đến phong trào đấu tranh của dân làng Xô Man, ta không quên hình ảnh anh Quyết. Anh là cán bộ của Đảng, là người đã nhen nhóm phong trào cách mạng cho cộng đồng dân làng Xô Man. Tnú còn nhớ như in lời của anh: " Sau này nếu Mĩ - Diệm giết anh, Tnú phải làm cán bộ thay anh". Anh chính là ngọn lửa đấu tranh nóng bỏng lòng căm thù. Anh là người đã truyền sức mạnh, niềm tin cho Tnú, cho Mai..., Anh là một người chiến sĩ dũng cảm, anh hùng.Nếu anh Quyết là hiện thân của lớp trẻ, của Đảng thì hình ảnh của cụ Mết lại sáng lên trong truyện ngắn như một trụ cột của dân làng Xô Man. Chẳng những vậy mà sau này, Nguyễn Trung Thành đã ghi lại trong hồ ký, đại ý: Ông là cội nguồn, là Tây Nguyên của thời đất nước đứng lên còn trường tồn đến hôm nay. Ông như lịch sử trùm nhưng không che lấp đi sự nối tiếp mãnh liệt, ngày càng mãnh liệt hơn, sành sỏi và tự giác hơn. Một lời nói của cụ Mết như lời nói của sông núi, là lời nói của cả dân tộc. Ông cụ là cội nguồn của dân làng Xô Man, là người đã lãnh đạo dân làng đánh giặc: "Chúng nó đã cầm súng, mình phải cầm giáo". Cụ hiện thân cho truyền thống, nét đẹp từ ngàn xưa của dân làng. Cụ rất ít khen tốt giỏi mà chỉ nói "được", cụ truyền lại sức mạnh, răn dạy con cháu: "Nhớ lấy, ghi lấy. Sau này tau chết rồi, bây còn sống phải nhớ nói lại cho con cháu". Hình ảnh cụ Mết là hình của một già làng suốt đời gắn bó với Tây Nguyên, chiến đấu bảo vệ muôn làng. Cụ tự hào về cây xà nu, đố nó giết hết rừng xà nu đất này. Đẹp thay hình ảnh của một ông cụ "râu bây giờ đã dài đến ngực vẫn đen bóng, mắt vẫn sáng và xếch ngược" hiển hiện giữa rừng núi Tây Nguyên. Và hình ảnh cụ cùng lớp thanh niên trong làng cầm giáo mác cứu Tnú cho thấy cụ là hiện thân của sức sống dân tộc, tâm hồn dân tộc. Nguyễn Trung Thành ngợi ca vẻ đẹp Tây Nguyên bởi vẻ đẹp tâm hồn cụ là vẻ đẹp của ngày xưa, trường tồn và mãnh liệt cho đến hôm nay.Viết về 'Rừng xà nu", viết về những con người anh hùng quả cảm, nhà văn đã khắc học hình ảnh nhân vật trung tâm: Tnú. Tnú là một thanh niên trẻ, anh dũng, gan dạn với một cuộc đời đầy bi kịch, đau thương nhưng anh đã vượt lên trên tất cả để sống, để chiến đấu và vẻ đẹp Tnú là vẻ đẹp của một con người chiến thắng,của một chiến sĩ anh hùng.Phẩm chất anh hùng của Tnú được bộc lộ từ khi anh còn là một cậu bé cùng Mai đưa thư, tiếp tế cho cán bộ. Tnú yêu cách mạng, yêu Đảng. Một lần bị giặc bắt, anh quyết không khai mặc dù bị tra tấn dã man. Lòng căm thù giặc đã trở thành dòng máu chảy trong lòng anh từ lúc làng Xô Man còn chưa biết vùng dậy đánh giặc. Tnú lớn lên trong sự yêu thương của dân làng, trong mối hận phải trả thù và ước ao được làm cán bộ. Anh trở thành anh thanh niên xung phong của dân làng Xô Man. Cuộc đời của Tnú là cuộc đời đầy cay đắng, bất hạnh. Một lần giặc đã bắt mẹ con Mai (vợ Tnú) để buộc anh phải ra hàng. Không kìm được lòng mình, khi nhìn thấy Mai cùng đứa con bị đánh, anh lao ra nhưng không cứu được hai mẹ con Mai. Rồi Mai chết, đứa con cũng chết, Tnú chắc cũng sắp chết. Tnú chỉ nghĩ " Ai sẽ làm cán bộ lãnh đạo dân làng Xô Man đánh giặc?" và chỉ tiếc không sống được đến ngày cùng dân làng nổi đậy. Chao ôi! Đến lúc cái chết cận kề anh cũng chẳng nghĩ cho bản thân mình. Tnú chỉ đau đáu một nỗi niềm với cách mạng, với Đảng. Rồi khi mười đầu ngón tay anh cháy như mười ngọn đuốc, anh cũng khong kêu van, anh thấy lửa cháy trong bụng, thấy máu đã mặn chát nơi đầu lưỡi "răng anh như đã cắn nán môi anh rồi". Tnú hi sinh tất cả, quên mình vì đồng loại. Bàn tay của anh là bàn tay của người anh hùng, bàn tay ấy kể với ta về số phận một con người đau thương mà không hề chùn bước. Tnú chẳng gục ngã như cây xà nu kia: "Cạnh một cây xà nu mới ngã gục, đã có bốn năm cây con mọc lên". Anh đem theo hình ảnh của Mai, của những tháng ngày đã qua, của hồi ức buồn để bước tiếp trên con đường cách mạng. Tnú là một con người anh hùng, quả cảm, giàu lòng yêu thương. Rồi bé Heng, Dít - tất cả đều mạng cái hồn của dân làng Xô Man. Nguyễn Trung Thành đã ngợi ca vẻ đẹp của con người Việt Nam trong thời kỳ kháng chiến chống Mĩ cứu nước với bản chất anh hùng, quả cảm của cả một cộng đồng vừa anh hùng lại vừa nhân ái trong công cuộc bảo vệ quê hương. Tôi còn nhớ câu thơ:" Đứng vững chãi bốn ngàn năm sừng sữngLưng đeo gươm tay mền mại bút hoa.Trong và thực, sáng hai bờ suy tưởngSống nhân ái mà nhân ái chan hoà"Và nếu như Nguyễn Trung Thành khám phá vẻ đẹp ở những người con của miền rừng núi Tây Nguyên thì Nguyễn Thi trong "Những đứa con trong gia đình" lại phát hiện vẻ đẹp con người ở vùng nông thôn Nam Bộ. Và nếu như phẩm chất anh hùng trong "Rừng xà nu" của Nguyễn Trung Thành bộc lộ qua tập thể của dân làng Xô Man thì bản chất anh hùng trong chuyện ngắn Nguyễn Thi lại bộc lộ qua bối cảnh gia đình. Nhân vật chính trong truyện là Việt và Chiến. Cả hai chị em đều phải sống trong sự thiếu thốn tình thương khi ba vá má bị giặc sát hại. Việt và Chiến tranh nhau đi bộ đội, nỗi đau và sự thiếu hụt tình cảm gia đình đã hun đúc cho cả hai chị em lòng căm thù giặc sâu sắc. Việt là anh bộ đội gan dạ, dũng cảm, tuy bị thương nhưng vẫn cố tìm và quyết đi cùng đồng đội. Trên mặt trận chiến đấu, Việt là một anh lính cụ Hồ, anh hùng quả cảm, lập chiến công và vẫn khiêm tốn không muốn báo cáo cho chị biết. Chi mong mỏi, khao khát được đánh giặc để trả thù cho ba má. Nguyễn Thi đã ca ngợi vẻ đẹp, ca ngợi phẩm chất anh hùng của những đứa con trong gia đình tuy nhỏ tuổi mà vẫn nặng lòng với cách mạng, sãn sàng hi sinh thân mình vì sự nghiệp cứu nước. Bản chất anh hùng của con người Việt Nam có ở mọi thế hệ, mọi dân tộc, tựa như đã trở thành dòng máu ngầm chảy ở mỗi một con người đất Việt. Chiến và Việt là hình ảnh của lớp trẻ hăng hái, dũng cảm trên bước đường chiến đấu gian khổ khốc liệt của quê hương. Họ tiêu biểu cho sức trẻ có thể làm đổi thay lịch sử và ghi thêm trang mới.Nguyễn Thi đã phát hiện vẻ đẹp anh dũng của con người Việt Nam nhưng chưa đủ, nhà văn còn tìm thấy ẩm sâu bên trong những cong người gan góc, quả cảm ấy là cả một tình yêu thương lớn lao, tình yêu thương gia đình. Việt tuy đã trở thành một anh bộ đội nhưng vẫn ngây thơ, trẻ con như cậu bé thủa nào. Đoạn hai chị em khiêng bàn thờ bàn thờ ba má sang nhà chú Năm gửi để đi bộ đội thật cảm động, nó để lại trong lòng ta biết bao rung động, tình cảm ngọt ngào:"Nào, đưa ba má sang ở tạm bên nhà chú, chúng con đi đánh giặc trả thù cho ba má". Câu văn như nghẹn ngào mà lại chứa chan biết bao sự quyết tâm của chị em Chiến và Việt. Việt cảm nhận rõ gánh nặng đang đè lên vai mình, lần đầu tiên Việt cảm nhận lòng mình rõ như thế. Và Việt thấy thương chị. Con người Việt Nam trong chiến tranh đâu chỉ biết chiến đấu mà còn biết yêu thương. Họ đã vượt lên trên lỗi đau cá nhân để chiến đấu vì nỗi đau đồng loại. Hình ảnh của Chiến và Việt hiện lên trong trang viết của Nguyễn Thi thật xúc động, neo lại trong tâm hồn ta khiến ta vừa ngạc nhiên vừa ngỡ ngàng vì vẻ đẹp của con người Việt Nam một thuở.Không đi sâu vào đề tài chiến tranh, không miêu tả nhiều về cuộc chiến đấu anh dũng của dân tộc, truyện ngắn "Mánh trăng cuối rừng" của Nguyễn Minh Châu đã tìm những hạt ngọc còn ẩn sâu trong cuộc sống. Nhà văn đã viết về đề tài tình yêu trên nền của chiến tranh bom đạn. Đọc "Mảnh trăng cuối rừng' ta bồi hồi tự hỏi:"Và nơi đâu trên trái đât nàyNgười vẫn ngọt ngào qua muôn nỗi đắng cay.Sống chết từng giây, mưa bom bão đạnLòng nóng bỏng căm thù vẫn mát tình bạn"Có nơi nào đẹp như nơi này chăng? Và có người dân nơi đâu vừa anh hùng trong chiến đấu, vừa nóng bỏng căm thù lại vẫn mát tươi một tình bạn, một tình yêu, tình đồng đội và tất cả gom lại thành tình yêu quê hương, đất nước? Hiện lên trong "Mảnh trăng cuối rừng" Nguyễn Minh Châu là hình ảnh của Nguyệt. Vẻ đẹp ngoại hình và phấm chất của Nguyệt được khắc hoạ, miêu tả thông qua cái nhìn của Lãm. Nguyệt sống giữa bom đạn mà bom đạn giội xuống cũng không hề đứt, không thể nào tàn phá được ư? Nguyệt có một niềm tin mãnh liệt vào cuộc sống.Hình ảnh Nguyệt hiện lên với " đôi gót chân hồng hồng, sạch sẽ, đôi dép cao su cũng sạch sẽ" ở đâu tác phẩm đã gây cho người đọc biết bao yêu mến. Nguyệt có vẻ đẹp dịu dàng, "mát mẻ như sương núi" toả ra từ nét mặt, dáng người mảnh dẻ. Nguyệt còn là một cô gái dũng cảm, gan dạ khi giúp Lãm vượt qua quãng đường khó. Lời nói cứng cỏi " Anh bị thương thì xe cũng mất, anh cứ nấp đó" cùng hình ảnh "Nguyệt nhìn vết thương, cười khuôn mặt hơi tái nhưng vẫn tươi tỉnh và xinh đẹp" đã làm Lãm "dấy lên tình yêu Nguyệt gần như mê muội lẫn cảm phục" và còn in đậm mãi trong lòng độc giả hình ảnh một cô gái trẻ tuổi, gan góc thông minh được Nguyễn Minh Châu khắc học với giọng điệu ca ngợi trân trọng. Nhà văn đã tìm thấy ở Nguyệt hiện thân của sức trẻ - một sức sống, sức chống chịu phi thường. Nguyệt hiện lên trang viết giữa khung cảnh chiến tranh như mọt mảnh trăng non đầu tháng, sáng trong, dịu hiền và luôn ẩn dấu một vẻ đẹp khiến ta phải tìm kiếm.Thế nhưng nguyễn Minh Châu không chỉ miêu tả phẩm chất anh hùng của Nguyệt mà còn khắc họa được vẻ đẹp lãng mạn của tình yêu, sức sống lãng mạn của tình yêu, sức sống mãnh liệt và niềm tin bất diệt của cô gái và cuộc sống. Nguyệt yêu Lãm mà chưa hề biết mặt, chưa hề thư từ mà chỉ qua lời của chị Tính. Cô nguyện chờ Lãm, mặc cho đôi khi Lãm phải ngạc nhiên vì "cái sợ chỉ xanh óng ánh" , phải thần thán khi biết Nguyệt vẫn một lòng chờ mình. Không dần dần được khám phá soi tỏ. Trong chiến tranh người ta không chỉ biết chiến đấu mà còn sáng lên một tình yêu thuỷ chung son sắc. Nếu Nguyệt chỉ thông minh, gan dạ, dũng cảm thì cô cũng chỉ như biết bao những cô gái thanh niên xung phong khác. Nguyễn Minh châu đã phát hiện ra vẻ đẹp tiềm ẩn, tưởng như mỏng manh giữa chiến tranh, bom đạn của người con gái ấy. Nguyệt sáng lên trong trang viết của ông hoà cùng ánh trăng, và văn Nguyễn Minh Châu cũng sáng lên trong lòng chúng ta bởi sức sống mãnh liệt của con người. Vẻ đẹp tâm hồn của Nguyệt khiến ta tin yêu con người,, kỳ vọng vào tương lai. Nguyễn Minh châu đã tìm thấy hạt ngọc nơi cuối rừng, hạt ngọc giữa thời rực lửa và cất lên khúc ca ngơi ca về con người, về vẻ đẹp con người Việt Nam hoà chung với khúc ca bất diệt, đầy tự hào của văn học thời kỳ chống Mĩ cứu nước."Rừng xà nu" của Nguyễn Trung Thành, "Những đứa con trong gia đình" của Nguyễn Thi, "Mảnh trăng cuối rừng" của Nguyễn Minh Châu là những tượng đài lộng lẫy về vẻ đẹp của con người Việt Nam trong cuộc kháng chiến chống Mĩ cứu nước đầy gian khổ thử thách mà rất đỗi anh hùng, sức sống mãnh liệt và vẻ đẹp của con người thời chiến với giọng điệu ngợi ca, hào hùng nhưng ở mỗi tác phẩm ta đều bắt gặp một cách khám phá sáng tạo riêng. Nếu như với "Rừng xà nu" Nguyễn Trung Thành đã dựng lên một tập thể anh hùng với hình ảnh cây xà nu ham ánh sáng, có sức sống dẻo dai thì Nguyễ\n Minh Châu lại khắc hoạ hình ảnh mẳng trăng non cuối rừng để làm sáng lên vẻ đẹp của Nguyệt. Nếu như 'Rừng xà nu" và "Những đứa con trong gia đình" đậm không khí sử thi, âm vang trầm hùng, bút pháp hoàng tráng, đố sộ thì "Mảnh trăng cuốc rừng" lại đến với lòng ta bằng một giọng điệu thiết tha, ngọt ngào, giàu màu sắc lãng mạn. Ba tác phẩm đi vào những khía cạnh khác nhau của đời sông kháng chiến, nhân vật hiện lên từ những khung cảnh, hoàn cảnh khác nhau và bút pháp khắc hoạ cũng mang tính độc đáo, cá biệt nhưng đều góp phần vào tiếng nói chung của dân tộc, tiếng nói phám phá ngợi ca vẻ đẹp của con người Việt Nam trong thời kỳ kháng chiến chống Mĩ cứu nước.Năm tháng trôi đi và lịch sử không ngừng biết động, "Rừng xà nu", "Những đứa con trong gia đình", "Mảnh trăng cuối rừng" mãi là những bông hoa không tuổi tựa mùa xuân không ngày tháng, đã ghi lại cái quá khứ hào hùng, sôi động của đất nước mình một thuở. Vẻ đẹp của con người Việt Nam đã làm nên cái hồn của cả dân tộc và góp phần làm cho tác phẩm sống mãi với thời gian. Văn học thời kỳ kháng chiến chống Mĩ cứu nước đã bắt được cái nhịp sống của dân tộc, đã ngợi ca sức sống và vẻ đẹp của con người. Giờ lật lại, chúng ta không khỏi tự hào, xúc động về những năm tháng đất nước mình đã đi qua, về vẻ đẹp muôn đời của con người đất Việt. Và ta mãi cất lên những bài ca không bao giờ quên - bài ca viết về quê hương, viết về con người bởi tự hào biết mấy hai tiếng: Việt Nam.Đề bài :Mùa xuân ở thiên nhiên và trong lòng MịHình tượng 2 bức tranh mùa xuân trong truyện vợ chồng A PhủLà một cây bút văn xuôi đương đại khá thành công, Tố Hữu là nhà văn có một lượng tác phẩm khá đồ sộ và phong phú trong các nhà văn hiện đại. Với một khả năng phân tích diễn biến tâm trạng nhân vật một cách tài hoa, khéo léo, độc đáo, Tố Hữu đã đem lại cho văn học Việt Nam những nhân vật truyện ngắn đa sắc, đa hình. Trong đó, ta không thể kể đến hình tượng một cô gái người Mèo là Mị trong "Vợ Chồng A Phủ” của Tô Hoài với hình ảnh hai hình ảnh mùa xuân đặc sắc.Tô Hoài (1920) là một nhà văn có sức sáng tạo dồi dào với trên 160 đầu sách qua hơn 60 năm cầm bút với rất nhiều thể loại khác nhau. Truyện "Vợ Chồng A Phủ” là một truyện ngắn đặc sắc được trích từ tập Truyện Tây Bắc cùng với 2 truyện ngắn khác là Cứu đất cứu Mường và Chuyện Mường giơn. Đó là một câu chuyện kể về cuộc đời gian lao, khổ cực của 2 con người lao động miền núi A Phủ và Mị qua 2 quãng đời – tương ứng với 2 phần truyện - ở Hồng Ngài và ở Phiềng Sa.Mị là một cô con dâu gạt nợ sống ở nhà thống lí Pá Tra để trả món nợ truyền đời – truyền kiếp là 20 đồng bạc trắng mà bố mẹ Mị vay bố Pá Tra để đến với nhau. Quãng đời của MỊ ở Hồng Ngài thật sự là một chuỗi ngày đen tối nhất của một người đàn bà ở giữa chốn đia ngục trần gian. Tuy là mang tiếng con dâu của vua xứ Mèo mà lại phải làm việc quần quật, thời gian sống lại tính bằng những công việc liên tiếp "mùa nào việc nấ”. Cố thật sự đã bị cướp đoạt quyền sống, quyền được hạnh phúc. Lẽ nhiên, khi bị dồn vào đường cùng, con người tất yếu sẽ tìm đến cái chết. Nhưng vì là một cô con gái có hiếu, Mị đã ném đi nắm lá ngón, cùng với ý định tự tử để trả món nợ hạnh phúc cho cha mẹ. Chính vì thế "sống lâu trong cái khổ, quen với cái khổ, Mị nghĩ mình là thân trâu thân ngựa”. Mị đã tự giam lỏng cả thể xác, tinh thần của mình vào cái chốn địa ngục trần gian với cái phòng tối chỉ có một ô cửa số mà lúc nào nhìn ra cũng "mờ mờ trăng trắng” không rõ là ngày hay là đêm. Và sự chịu đựng nhẫn nhục ấy đã dẫn Mị rơi vào bi kịch đánh mất sức sống bản năng hay là "tê liệt tinh thần phản kháng”.Tưởng đâu đấy sẽ là một dấu chấm hết cho cuộc đời của người đàn bà Mèo ấy, nhưng đằng sau cái đống tro tàn của lòng Mị, vẫn còn thấp thoáng đâu đó những tia lửa nhỏ của khát vọng sống. Và chỉ cần một cơn gió tác động, nó sẽ bừng lên thành lửa ngọn – ngọn lửa của sự khát khao mãnh liệt được sống – chứ không chấp nhận tồn tại với thân phận nô lệ như vậy. Và cũng vì thế, người ta khó có thể nào quên cái mùa xuân muộn năm ấy ở Hồng Ngài. Khi những dấu hiệu của Tết đang đến gần: ngọn khói, tấm váy hoa xòe được đem phơi, lũ trẽ ầm ĩ chơi quay trong sân, tiếng sáo gọi bạn tình văng vẳng đến trước ngõ mỗi nhà… thì tất cả mọi người dân đã sẵn sàng cho một cái Tết thật sôi nổi, đầm ấm.Cái không khí mùa xuân sặc sỡ đa thanh đa sắc ấy đã phần nào tác động đến tâm hồn giá lạnh nơi Mị. Cùng với men rượu ngà ngà của buổi cúng ma của nhà Thống Lý, Mị như lịm đi bên mâm rượu thầm nhớ về ngày xưa – cái ngày Mị còn nghe văng vẳng tiếng sáo gọi bạn tình, ngày mà Mị còn được tự do với tình yêu của mình. Càng nghĩ về ngày xưa, Mị lại càng thấm thía được nỗi đau thân phận nô lệ nhục nhã, tủi hổ như đang len lỏi vào từng suy nghĩ của mình. Càng nghĩ, càng tủi, Mị lại muốn tìm một sự giải thoát nơi chén rượu ấy với từng bát "ực” như một sự phản kháng của riêng mình. Và như nhận thức được bản thân, Mị lại tìm đến căn buồng tối ấy – như một sự tìm kiếm đến một không gian riêng. Mị nhận ra cái cuộc hôn nhân không tình yêu đó đã đày đọa đời Mị biết bao lâu. Cái cảm giác muốn được chết đã quay lại nơi Mị cùng với sự thấp thoáng của tiếng sao văng vẳng đâu đây: "Anh ném pao, em không bắt – Em không yêu, quả pao rơi rồi”. Ngày xưa, Mị cũng là một cô gái trẻ, tràn đầy sức sống, cũng là con người tài hoa với việc thổi kèn lá, kèn môi rất giỏi. Vì thế, ta không ngạc nhiên gì khi tiếng sáo văng vẳng nơi xa kia, cùng với hơi rượu nồng nàn đã khơi dậy nơi Mị những bổi hổi, bồi hồi về những ngày trước kia. Mị cảm thấy phơi phới, cảm thấy mình còn trẻ lắm, còn rất trẻ và muốn đi chơi,cũng muốn hòa nhập bản thân mình vào lễ hội tưng bừng ấy. Nghĩ là làm, Mị đến góc nhà, "lấy ống mỡ, xắn một miếng bỏ thêm vào đĩa đèn cho sáng”. Hành động nhỏ ấy nhưng đã cho ta thấy được biết bao nhiêu điều: Mị đã dần nhận thức được không gian mình đang sống, đang cần một chút ánh sáng – dù chỉ heo hắt – để soi sáng con đường, soi sáng cả cuộc sống tối tăm mù mịt của mình nơi địa ngục trần gian ấy. Ngay sau đó là những hành động liên tiếp nhau: "mị quấn lại tóc, Mị với tay lấy cáo váy hoa vắt ở trong vách”. Mị làm tất cả một cách nhanh chóng, không mở một lời như một sự quyết liệt, bình thản, khi mà trong đầu cô chỉ còn "rập rờn tiếng sao”. Bây giờ, Mị chỉ còn biết đi theo một con đường- nơi có tiếng gọi của sự sống, của tình yêu đang vẫy gọi ngoài kia.Vậy mà ý định giải thoát ấy đã không thành khi có sự xuất hiện của A Sử. Nó biết rằng Mị muốn đi chơi khi phát hiện ra những hành động ấy. Với một bản tính ác độc, độc đoán, vô tình, vô nghĩa, nó đã thẳng tay trói cô lại, lại còn quấn mái tóc lên cái cột làm MỊ không cúi, không nghiêng được nữa. Thế nhưng, nó đâu biết rằng, nó chỉ có thể trói được thể xác của người đàn bà kia mà không hề biết rằng Mị vẫn đang mơ màng, hướng tới cái sự sống ngoài kia: Mị như không biết mình đang bị trói, vẫn đưa mình theo tiếng sáo, theo những cuộc chơi, đám chơi. Và cứ như thế - một mình – trói buộc nơi cái cột đó với hơi rượu tỏa – tiếng sáo – tiếng chó sủa xa xa…Thành công của Tố Hữu chính là việc khắc họa nội tâm nhân vật của yếu bằng tâm trạng. Chỉ bằng một sự khai thác tinh tế nơi sự thay đổi cảnh sắc mùa xuân đất trời, mùa xuân nơi bản làng, người đọc như thấy được nó đã tác động như thế nào đến tâm hồn nguội lạnh của người đàn bà kia. Cả trong đêm ấy, hành động của Mị được tác giả miêu tả rất ít, ngắn gọn, những nó đã thật sự gây hứng thú cho người đọc khi dõi theo từng cử chỉ, từng kí ức, từng việc làm của Mị trong đêm mùa xuân ấy. Có thể nói, Tô Hoài đã đặt cả tấm lòng của mình vào nơi Mị mới có thể gây cho người đọc một sự đồng cảm sâu sắc đến vậy.Với sự trỗi dậy – dù chỉ trong khoảnh khắc – của khát khao sống, ta nhận ra rằng cô Mị "lùi lũi như con rùa nuôi nơi xó cửa”, đã không còn nữa; mà thay vào đó là một cô gái luôn âm ỉ trong mình một ngọn lửa được sống – chứ không phải tồn tại như một cái xác không hồn như trước kia. Qua đó, ta cũng thấy được giá trị hiện thực được tác giả tô đậm như một bản tố khổ về một hình ảnh chốn địa ngục trần gian đã đày đọa một người con gái đang tuổi thanh xuân vào thân phận nô lệ chờ ngày chết. Hay đó cũng là một sự khám phá và khẳng định về sức sống mãnh liệt của người dân miền núi hết sức quyết liệt và mạnh mẽ để tìm ra cho mình một con đường sống. Và dù cái ý định giải thoát ấy có bị dập tắt đi chăng nữa, thì nó chăng đã trở thành một ngọn sóng ngầm luôn thường trực trong tâm hồn người đàn bà ấy, sẵn sàng tuôn trào ra, mãnh liệt hơn lúc nào hết! .Đề bài :Phân tích tâm trạng và hành động của nhân vật Mị trong đêm cứu A Phủ Mị là nhân vật trung tâm trong truyện ngắn "Vợ chồng A Phủ" mà nhà văn Tô Hoài đã giành nhiều tài năng và tâm huyết để xây dựng. Truyện được trích từ tập "truyện Tây Bắc" (1953) của Tô Hoài. Trong chuyến đi cùng bộ đội vào giải phóng miền Tây Bắc (1952), Tô Hoài đã có dịp sống, cùng ăn, cùng ở với đồng bào các dân tộc miền núi, chính điều đó đã giúp Tô Hoài tìm được cảm hứng để viết truyện này. Tô Hoài thành công trong "Vợ chồng A Phủ" không chỉ do vốn sống, tình cảm sống của mình mà còn là do tài năng nghệ thuật cùa một cây bút tài hoa. Trong "Vợ chồng A Phủ", Tô Hoài đã sử dụng nhiều biện pháp nghệ thuật, trong đó nổi bật và đáng chú ý nhất là biện pháp phân tích tâm lý và hành động của Mị trong từng chặng đường đời. Điểm nghệ thuật ấy thật sự phát sáng và thăng hoa trong đoạn văn miêu tả tâm lý và hành động của nhân vật Mị trong đêm mùa đông cứu A Phủ. Qua đó ta thấy được giá trị hiện thực và nhân đạo của tác phẩm.Trong tác phẩm này, điều gây cho bạn đọc ấn tượng nhất đó chính là hình ảnh của cô gái "dù làm bất cứ việc gì, cô ta cũng cúi mặt, mặt buồn rười rượi". Đó là nét tâm lý của một con người cam chịu, buông xuôi trước số phận, hoàn cảnh sống đen tối đầy bi kịch. Sở dĩ Mị có nét tính cách ấy là do cuộc sống hôn nhân cưỡng bức giữa Mị và A Sử. Mị không được lấy người mình yêu mà phải ăn đời ở kiếp với một người mà mình sợ hãi, lạnh lùng. Một nguyên nhân nữa chính là do uy quyền, thần quyền, đồng tiền của nhà thống lý Pá Tra đã biến Mị thành một đứa con dâu gạt nợ. Mang tiếng là con dâu của một người giàu có nhất
File đính kèm:
- rung xa nu vo chong a phu vo nhat.doc