Sáng kiến kinh nghiệm Bồi dưỡng năng lực cảm thụ văn học cho học sinh Lớp 4,5

doc6 trang | Chia sẻ: thuongnguyen92 | Lượt xem: 397 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Sáng kiến kinh nghiệm Bồi dưỡng năng lực cảm thụ văn học cho học sinh Lớp 4,5, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Bồi dưỡng năng lực cảm thụ 
văn học cho học sinh lớp 4 – 5
I. Đặt vấn đề
Cảm thụ văn học là một yêu cầu quan trọng trong chương trình bồi dưỡng học sinh giỏi lớp 4 – 5. Mặt khác chương trình môn Tiếng Việt từ lớp 1 – 5 ở Tiểu học luôn coi nhiệm vụ bồi dưỡng năng lực cảm thụ văn học cho học sinh là nhiệm vụ quan trọng, cần thiết bởi vì:
- Cảm thụ văn học đem đến cho học sinh nguồn cảm hứng say mê, sự sáng tạo trong tư duy của học sinh. Qua đó giúp các em cảm thấy yêu thích tác phẩm thơ - văn, yêu thích các nhà thơ, nhà văn từ đó các em trở nên yêu thích môn Tập làm văn. 
- Cảm thụ văn học còn giúp các em đọc hiểu và cảm nhận những bài thơ, bài văn hay trong sách giáo khoa, từ đó thêm mở mang tri thức, phong phú về tâm hồn. Chính vì vậy mà chúng ta cần quan tâm bồi dưỡng năng lực cảm thụ cho học sinh.
II. Giải quyết vấn đề
1. Trau dồi cho học sinh nguồn cảm hứng khi tiếp xúc với thơ văn
- Lứa tuổi học sinh lớp 4- 5 nói riêng và học sinh Tiểu học nói chung rất thích được nghe kể chuyện, đọc thơ. Vì vậy, căn cứ vào tâm lí lứa tuổi chúng ta cần giúp học sinh tiếp cận nhiều với thơ văn bằng các biện pháp khác nhau như:
+ Cho các em đọc thuộc các bài thơ trong SGK Tiếng Việt.
+ Tổ chức các cuộc thi kể chuyện, ngâm thơ hoặc sáng tác thơ văn.
+ Dạy cho học sinh đọc diễn cảm một bài thơ, đoạn văn hay chăm chú quan sát, lắng nghe để tìm hiểu cái đẹp của thiên nhiên. Qua đó giúp các em “làm thân với văn thơ”
+ Trau dồi hứng thú khi tiếp xúc với thơ văn cũng chính là tự rèn luyện mình để nhận thức đúng và có tình cảm đẹp, từ đó đến với văn học một cách tự giác, say mê – yếu tố quan trọng của cảm thụ văn học.
2. Trang bị cho học sinh vốn hiểu biết để giúp các em có thêm cảm nhận được vẻ đẹp của thơ văn
- Muốn cảm nhận được bài thơ, bài văn trước tiên học sinh cần có vốn hiểu biết nhất định.
a) Học sinh cần phải hiểu thế nào là cảm thụ văn học? Hiểu một cách đơn giản cảm thụ văn học chính là sự cảm nhận những giá trị nổi bật, những điều sâu sắc tinh tế và đẹp đẽ của văn học thể hiện trong bài thơ hoặc đoạn văn thậm trí một từ ngữ giá trị trong câu thơ, câu văn.
Để giúp học sinh hiểu được khái niệm trên, giáo viên cần phải thông qua những dẫn chứng cụ thể trong các bài Tập đọc.
Ví dụ 1: Trong bài “Tình quê hương” có câu “Làng quê tôi đã khuất hẳn nhưng tôi vẫn đăm đắm nhìn theo.” 
Giáo viên cần giúp học sinh thấy được giá trị của từ “đăm đắm” trong câu bằng cách so sánh sự khác nhau về nghĩa giữa từ “đăm đắm” và “chăm chú” thì mới thấy chứa chan bao nhiêu cái nhớ thương qua cái nhìn trong câu văn trên. Cũng là nhìn không dứt vào đối tượng nhưng nhìn đăm đắm là nhìn một cách có tính bị thu hút bởi đối tượng, còn nhìn chăm chú không có nét nghĩa này.
Ví dụ 2: Trong bài “Mùa hoa bưởi” có câu “Rắc trắng vườn nhà những cánh hoa vương”
Giáo viên cần phân tích cho học sinh hiểu: rắc chứ không phải là rơi hặc rụng vì “rắc” là chủ động trang điểm cho khu vườn bằng những cánh hoa. Vườn đẹp nhờ cánh hoa vương trong khi đó “rơi”, “rụng” không làm đẹp mà làm bẩn vườn. “Rắc” làm cho cây bưởi có hồn.
Ví dụ 3: Bài “Chùm hoa giẻ” của nhà thơ Xuân Hoài có câu “Cứ thơm hoài xôn xao”
“Thơm hoài xôn xao” chứ không phải thơm ngào ngạt, thơm lừng vì từ “xôn xao” là từ tượng thanh khiến mùi thơm như biết nói, biết cất thành lời, thơm đến mức gây ấn tượng xôn xao. Sự chuyển đổi cảm giác còn gợi những gì của tâm trạng xốn xang, xao xuyến cho ta thấy tác giả không thể không yên trước mùi hương này. Như vậy là có cả cảnh, cả tình.
Ví dụ 4: Trong bài “Tiếng hát mùa gặt” có đoạn:
“Đồng chiêm phả nắng lên không
Cánh cò dẫn gió qua thung lúa vàng
Gió nâng tiếng hát chói chang
Long lanh lưỡi hát liếm ngang chân trời”.
Cả một trường từ “phả, dẫn, nâng, liếm” cho ta thấy sự nâng đỡ, ủng hộ lẫn nhau những nắng, gió, cánh cò, thung lúa vàng, tiếng hát, lưỡi hái tạo ra một bức tranh hài hoà tràn đầy niềm vui sướng, tự hào của người nông dân trong mùa gặt hái.
Ví dụ: Trong bài “Khúc hát ru những em bé lớn trên lưng mẹ” của nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm có viết:
“Mặt trời của bắp thì nằm trên đồi
Mặt trời của mẹ em nằm trên lưng.”
Tác giả so sánh “con nằm trên lưng” là mặt trời của mẹ cho ta thấy người mẹ đã coi con là mặt trời, là sự sống – là lẽ sống của mình. Có lẽ khó mà tìm được cách nói nào nói được lòng mẹ yêu con vô cùng, vô tận đến thế.
b) Trang bị cho học sinh vốn hiểu biết về các biện pháp tu từ trong Tiếng Việt (Nhân hoá, so sánh, điệp từ, điệp ngữ, đảo ngữ, ẩn dụ, chuyển đổi cảm giác)
Bằng cách thông qua các câu thơ, câu văn để giúp học sinh phát hiện những biện pháp tu từ. 
Ví dụ: Dạy biện pháp tu từ nhân hoá, giáo viên có thể đưa ra các câu thơ để tìm hiểu:
“Cái na đã tỉnh giấc rồi
Đàn chuối đứng vỗ tay cười vui sao
Chị tre chải tóc bên ao
Nàng mây áo trắng ghé vào soi gương”
Trần Đăng Khoa
Giáo viên nêu ra các câu hỏi khai thác:
+ Tác giả đã dùng những từ ngữ nào để gọi tên các sự vật trong bài thơ? (cái, đàn, nàng, chị)
+ Những từ ngữ, chi tiết nào cho ta thấy những sự vật vô tri, vô giác giờ đây giống như con người? (na cũng biết tỉnh giấc, chuối cũng biết vỗ tay, tre cũng biết chải tóc, mây biết soi gương)
+ Làm thế nào mà tác giả lại có thể biến những sự vật vô tri, vô giác đó thành những sự vật như con người? (bằng cách gán cho chúng những tên gọi, những suy nghĩ, những hành động như con người hoặc có thể tâm sự, trò chuyện với nó như con người).
Qua cách phân tích trên giúp học sinh hiểu như thế nào là phép nhân hoá? Nhân hoá có tác dụng gì?
c) Giúp học sinh nắm vững kiến thức cơ bản về Tiếng Việt
Để trau dồi năng lực cảm thụ văn học ở Tiểu học, các em cần nắm vững kiến thức cơ bản đã học trong chương trình môn Tiếng Việt ở Tiểu học. Có hiểu biết về ngữ âm và chữ viết tiếng Việt.
Ví dụ: Qua câu thơ: 
“Dưới trăng quyên đã gọi hè
Đầu tường lửa lựu lập loè đơm bông.”
Bốn phụ âm đầu “l” được lặp lại, các thanh điệu hài hoà, từ “lập loè” có một tiếng láy mang vần “âp” (thường gợi nét nghĩa: Một trạng thái không ổn định lúc mờ, lúc tỏ, lúc mạnh, lúc yếu) Những hiểu biết đó giúp ta thấy rõ hoa lựu đỏ như sắc lửa khi ẩn, khi hiện báo hiệu không khí oi bức của mùa hạ đang tới gần.
Nắm vững kiến thức ngữ pháp Tiếng Việt các em không chỉ nói, viết tốt mà còn có thể cảm nhận được nét đẹp nội dung qua những hình thức diễn đạt sinh động và sáng tạo.
Ví dụ: Trong những câu văn rất hay của nhà văn Nguyễn Phan Hách có cách đặt câu rất độc đáo:
“Thoắt cái, lác đác lá vàng rơi trong khoảnh khắc mùa thu. Thoắt cái, gió xuân hây hẩy nồng nàn với những bông hoa lay ơn màu đen nhung hiếm quý.”
Nếu thiếu đi những trạng ngữ gây ấn tượng về thời gian “thoắt cái”, không dùng cách đảo bổ ngữ “lác đác”, đảo vị ngữ “trắng long lanh” thì những câu văn trên sẽ không thể làm cho người đọc cảm nhận được vẻ đẹp nên thơ và huyền ảo của thắng cảnh Sa Pa.
3. Rèn luyện kĩ năng viết đoạn văn về cảm thụ văn học
Rèn luyện để nâng cao năng lực cảm thụ là một trong những nhiệm vụ cần thiết đối với mỗi học sinh Tiểu học. Để làm được bài tập về cảm thu văn học đạt kết quả tốt, các em cần thực hiện như sau:
a) Đọc kĩ đề bài nắm chắc yêu cầu của bài tập phải trả lời được điều gì? Cần nêu bật được ý gì?
b) Đọc và tìm hiểu về câu thơ (câu văn) hay đoạn trích được nêu trong đề bài. Dựa vào yêu cầu của đề bài để tìm hiểu về cách dùng từ, dặt câu, cách dùng hình ảnh, cách sử dụng những biện pháp nghệ thuật quen thuộc như so sánh, nhân hoá, điệp từ, điệp ngữ đã giúp em cảm nhận được nội dung, ý nghĩa gì đẹp đẽ sâu sắc?
c) Viết đoạn văn về cảm thụ văn học (khoảng 5 – 7 dòng) hướng vào yêu cầu của đề bài. Đoạn văn có thể bắt đầu bằng một câu “mở đoạn” để dẫn dắt người đọc hoặc trả lời thẳng vào câu hỏi chính, tiếp đó cần nêu rõ các ý theo yêu cầu của đề bài. Cuối cùng có thể kết đoạn bằng một câu ngắn gọn để gói lại nội dung cảm thụ. Đoạn văn cần diễn đạt một cách hồn nhiên, trong sáng và bộc lộ được cảm xúc, tránh diễn giải dài dòng hoặc sa vào phân tích quá kĩ bằng giọng văn không phù hợp vói lứa tuổi các em.
III. Kết quả
Nhờ vận dụng phương pháp giảng dạy và bồi dưỡng trên mà trong năm học qua tôi đã thu được những kết quả đáng kể như sau:
- Số học sinh do tôi bồi dưỡng giảng dạy đã nắm chắc kiến thức và phương pháp, biết vận dụng để viết được những đoạn cảm thụ khá tốt.
- Kết quả bồi dưỡng học sinh giỏi môn Tiếng Việt do tôi giảng dạy có 12 em dự kiểm tra khảo sát đội tuyển học sinh giỏi do Phòng Giáo dục tổ chức có 12 em đều đạt (100%). Trong đó có 2 em đạt số điểm khá cao (em Phạm Sao Mai đạt 17,6 điểm, em Nguyễn Minh Thuý đạt 16.0điểm).
Trên đây là một số kinh nghiệm mà tôi đã áp dụng đạt kết quả. Tôi rất mong được sự góp ý của Ban thi đua và Hội đồng xét duyệt. 
Tôi xin chân thành cám ơn!
Xác nhận của nhà trường
Điệp Nông, ngày 28 tháng 5 năm 2007
Người viết
Nguyễn Thị Loan

File đính kèm:

  • docSang kien Boi duong nang luc cam thu van 45.doc