Sáng kiến kinh nghiệm gây hứng thú học môn Sinh học 7

doc16 trang | Chia sẻ: minhhong95 | Lượt xem: 607 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Sáng kiến kinh nghiệm gây hứng thú học môn Sinh học 7, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Sáng kiến kinh nghiệm
 Gây hứng thú học môn sinh học 7
 * Giáo viên: Nguyễn Thị Vân Anh
 * Tổ : Hóa-Sinh-Kỷ-Anh
 * Năm học: 2010-2011
 a. Đặt vấn đề
I. Lời mở đầu:
Trong thời đại CNH - HĐH đất nước mỗi chúng ta phải luôn luôn đối mới công việc của mình. Việc dạy học là cả một quá trình nghệ thuật, kết quả của quá trình này tốt hay xấu, không chỉ xác định trong một thời gian ngắn mà nó phải trải qua một quá trình lâu dài đó là vốn hiểu biết đã được tích luỹ sự tìm tòi sáng tạo của người giáo viên trong quá trình giảng dạy.
Bậc THCS thuộc bậc trung học đóng vai trò cầu nối giữa THPT và bậc tiểu học, phải đảm bảo tính lưu thông với hệ thống giáo dục nghề nghiệp, tuy nhiên cũng có vị trí độc lập tương đối. Ưu điểm lớn của lứa tuổi này là sự sẵn sàng của nó đối với mọi hoạt động học tập làm cho nó trở thành người lớn trong con mắt của mình. Học sinh THCS bị cuốn hút vào các hình thức hoạt động nhận thức của mình trong những giới hạn của nhà trường. Nhưng sự nghèo nàn của lứa tuổi này là ở chỗ: Các em chưa biết cách thực hiện sự sẵn sàng đó, chưa nắm được các phương thức thực hiện các hình thức học tập mới. Dạy các phương thức đó mà không làm giảm sút hứng thú học tập của các em là nhiệm vụ quan trọng và khó khăn của giáo viên.
Trong quá trình lĩnh hội tri thức học sinh luôn chờ đợi những hình thức tìm hiểu mới đối với từng bài, đó là tính tích cực, tính động não của tư duy và tính tự lập của chúng được thực hiện, các khả năng trí tuệ được khêu gợi, yêu cầu tự suy nghĩ và tự khái quát các khái niệm được đề cao. Thái độ tự nghiên cứu đã trở thành một đặc trưng cho học sinh.
ở mỗi bài sinh lại có những đặc trưng riêng của nó và có thể có nhiều cách học khác nhau. Trong quá trình dạy môn sinh học người giáo viên phải kết hợp một cách linh hoạt, hợp lý nhiều phương pháp và hình thức tổ chức "Học một bài sinh như thế nào". Như vậy mới làm cho các em nghĩ nhiều hơn thảo luận nhiều hơn góp phàn tạo cơ sở quan trọng cho việc đổi mới thực sự phương pháp dạy học mà Nhà nước ta đã và đang thực hiện. Quá trình này tuân theo định hướng tích cực hoá hoạt động của học sinh trên cơ sở tự giác, tự do, tự khám phá dưới sự tổ chức, hướng dẫn của giáo viên. Từ đó xây dựng phương pháp tự học theo hướng tích cực.
Môn sinh học là một trong những vấn đề trọng tâm của phương pháp dạy học, bởi lẽ môn sinh học là môn học cả người học lẫn người dạy thường xuyên phải làm, đặc biệt đối với học sinh THCS thì việc học môn sinh học là hình thức dựa trên mẫu vật để tìm ra kiến thức của mình.
Là một giáo viên dạy sinh học vào ngành chưa lâu tôi luôn không ngừng phấn đấu học hỏi sáng tạo trong quá trình dạy môn sinh học và cùng với sự giúp đỡ của các đồng nghiệp cũng đã đạt được một số kết quả nhất định trong năm học vừa qua và học kỳ I của học kỳ này.
Tôi mong muốn mình có thể góp phần vào việc giáo dục học sinh, giúp các em có được phương pháp học tốt nhất, kích thích lòng say mê học hỏi của các em. Từ những lý do đó mà tôi viết đề tài "Giúp học sinh học tốt môn sinh học lớp 7.
II. Thực trạng của vấn đề nghiên cứu .
- Chúng ta đã biết một nguyên tắc cơ bản của lý luận dạy học hiện đại là phải đảm bảo mối quan hệ chặt chẽ hữu cơ giữa 3 thành tố: Mục đích - nội dung và phương pháp.
Trong quá trình dạy học có biến đổi thường xuyên vốn kinh nghiệm của học sinh biến đổi cả về số lượng của hệ thống tri thức, biến đổi các năng lực người cùng với sự biến đổi đó thì năng lực trí tuệ của học sinh cũng được phát triển.
Với mục tiêu mới thì cần phải có nội dung mới và phương pháp dạy học mới thích hợp, phương pháp dạy học mới có thể tạo điều kiện để lựa chọn nội dung đến tối ưu và thực hiện mục đích ở tầm cao hơn.
Trọng điểm của phương pháp đổi mới là chuyển mạnh từ việc năng truyền thụ kiến thức song việc chú trọng bồi dưỡng năng lực cho học sinh đặc biệt là năng lực sáng tạo, năng lực thực hành.
Vì vậy việc đối mới chương trình và sách giáo khoa lần này tập trung chủ yếu đổi mới phương pháp dạy học.
Phương pháp học mới là giáo viên hỗ trợ, hướng dẫn tạo điều kiện cho học sinh thực hiện thành công các hoạt động học tập làm trọng tài trong các cuộc thảo luận ở lớp để đi đến kết luận hợp lý nhất, làm cho tiết học có chất lượng cao hơn .
Trong những năm gần đây các sách báo khoa học giáo dục và trong thực tế dạy học được diễn đạt bằng các thuật ngữ như: "Dạy học nêu vấn đề"; "Dạy học coi học sinh là trung tâm" ; " Phương pháp dạy học tích cực" ... Tuy nhiên trên thực tế mục đích cần đạt được là kết quả của sự vận dụng tổng hợp những khía cạnh bản chất tích cực trong các xu hướng lý luận nói trên. Và không có một phương pháp giáo dục nào là vạn năng có thể áp dụng cho mọi hoàn cảnh, mọi đối tượng học sinh. Chúng ta thường phải sử dụng tổng hợp nhiều phương pháp đặc biệt là đối với môn sinh học: Con đường hình thành kiến thức chủ yếu là con đường thực nghiệm, xuất phát từ kinh nghiệm sống của học sinh học từ những quan sát trực tiếp, giảm nhẹ những suy luận lý thuyết phức tạp.
*. Các nhiệm vụ và giới hạn đề tài.
1. Nhiệm vụ:
Để góp phần vào việc dạy và học tốt môn sinh học ở đề tài này tôi nghiên cứu các nhiệm vụ sau:
- Đưa ra cơ sở lý luận của quá trình dạy môn sinh học.
- Thực trạng học và dạy môn sinh ở trường 
- Một số biện pháp thực hiện và những kết quả đã đạt được.
- Một số bài học kinh nghiệm và những kiến nghị đề xuất.
 2. Giới hạn đề tài.
Nghiên cứu về:
- Vai trò và mục đích của môn sinh.
- Những thiếu sót của học sinh trong việc học và việc dạy của giáo viên.
- Các biện pháp đã thực hiện 
- Kết quả đạt được.
*. Những luận điểm bảo vệ
Trong thời đại hiện nay để tăng cường thu nhập theo đầu người, tiến bộ trong giáo dục sức khoẻ, bảo vệ môi trường. Trên thực tế giáo dục là yếu tố rất quan trọng để nâng cao năng suất lao động. Đồng thời giáo dục cũng là yếu tố rất quan trọng là nhân tố tích cực trong việc cải tạo, xây dựng củng cố và phát triển quan hệ sản xuất mới.
Lịch sử đã chứng minh vai trò to lớn của giáo dục trên mọi mặt đời sống và xã hội, còn trong sự hình thành và phát triển nhân cách của học sinh.
Nếu như tính tích cực được thể hiện ở các cấp độ bắt chước, tái hiện, tìm tòi, sáng tạo thì học sinh THCS cần phải vươn tới hai cấp: Tìm tòi và sáng tạo. Có như thế các em mới trở thành những con người trong xã hội, mới là những chủ nhân của đất nước. Đặc biệt lứa tuổi THCS các em cần phải rèn luyện phấn đấu cả tài lẫn đức.
Chương trình sinh học THCS có nhiệm vụ cung cấp cho HS một hệ thống kiến thức cơ bản, bước đầu hình thành ở HS những kỹ năng cơ bản phổ thông và thói quen làm việc khoa học.
Đối với môn sinh học có mối quan hệ gắn bó chặt chẽ, qua lại với các môn khác. Nhiều kiến thức và kỹ năng đạt được qua môn sinh học là cơ sở đối với việc học tập các môn khác.
Phương pháp giảng dạy sinh học một cách đúng đắn, phù hợp với mục tiêu giáo dục có những khả năng to lớn góp phần hình thành và rèn luyện ở học sinh cách thức tư duy và làm việc khoa học, cũng như góp phần giáo dục học sinh có ý thức thái độ trách nhiệm đối với cuộc sống, gia đình xã hội và môi trường.
*. Những đóng góp mới cũng như ý nghĩa lý luận và thực tiễn đề tài.
Từ năm học 2003 - 2004 đến nay chương trình đổi mới sách giáo khoa lớp 7 qua quá trình điều tra, tìm hiểu, thu thập thông tin tôi nhận thấy học sinh còn mắc nhiều thiết sót trong khi học và ngay cả giáo viên dù luôn luôn không ngừng phấn đấu để có những giờ dạy tốt nhất thì còn mắc phải một số thiếu sót trong khi dạy. ở mức độ của đề tài này tôi chỉ xin nêu lên những thiếu sót của học sinh và giáo viên trường THCS.
* Về phía học sinh: Do chất lượng ( về mặt kiến thức) không đồng đều, phương pháp học mới là chia nhóm tự tìm hiểu, tự nghiên cứu (có sự tổ chức hướng dẫn của giáo viên) học sinh tự làm thí nghiệm, hoặc quan sát thí nghiệm, nhận xét sự vật hiện tượng để rút ra kết luận là điều hết sức khó khăn đối với học sinh tuy đã được làm quen với cách học này từ lớp 6.
Nhiều học sinh học kém, những học sinh học kém lười học không nắm vững kiến thức cơ bản đã đành, còn nhiều học sinh chịu khó học bài thuộc bài nhưng vẫn không trả lời được các câu hỏi. Những học sinh đó thường mắc các thiếu sót sau:
Chưa đọc kỹ các câu hỏi đã vội trả lời bởi vậy không biết nắm bắt đầu từ đâu, khi gặp khó khăn không biết làm thế nào để tìm ra lời giải.
Không chịu khảo sát kỹ từng chi tiết và kết hợp những chi tiết của bài theo nhiều cách không sử dụng hết các dữ kiện của bài.
Không vận dụng hoặc sử dụng chưa thành thạo các phương pháp suy luận hoặc áp dụng các phương pháp một cách máy móc thiếu linh hoạt.
Không chịu kiểm tra lại câu trả lời hoặc vận dụng nhầm kiến thức, không mở rộng các câu trả lời do đó bị hạn chế trong việc rèn luyện năng lực sinh học.
* Về phía giáo viên với phương pháp giảng dạy như hiện nay cũng còn gặp không ít khó khăn cần phải khắc phục: Phần lớn các tiết dạy trong chương trình đều phải có mẫu vật. Trong khi đó cơ sở vật chất của nhà trường còn nhiều khó khăn không đáp ứng được yêu cầu thực tế của bộ môn, ngay cả khi đã được nhà trường cung cấp thiết bị, đồ dùng dạy học thì lại không có phòng bộ môn, phòng thí nghiệm để làm thực hành.
Đối với việc dạy học trên lớp cũng còn nhiều khó khăn, phòng học thiếu dẫn đến học sinh trong mỗi lớp học đông gây bất lợi cho việc phân nhóm học sinh thảo luận.
Việc tổ chức dạy học cũng cần phải đổi nhiều có giáo viên chưa tâm huyết với nghề, hết lòng yêu thương trẻ em, luôn không ngừng phấn đấu, ttự cải tạo mình, tự thu hẹp quyền uy của mình "quyền độc thoại, giảng giải, minh hoạ, làm mẫu, kiểm tra, đánh giá, kỷ năng thực hành, tính toán, suy luận, còn học sinh thì thụ động ngồi nghe, ngồi nhìn, cố mà ghi nhớ và nhắc lại", dành cho HS vị trí chủ động trong học tập.
Bên cạnh đó còn một số giáo viên còn bảo thủ không từ bỏ được thói quen trên, không thích được đòi hỏi mới học sinh thì đã quen học thụ động, dựa vào giảng giải tỉ mỉ, kỹ lưỡng của giáo viên, ít tự lực tìm tòi nghiên cứu. Do đó kỹ năng tự học đã yếu lại càng yếu hơn,
Dù còn gặp nhiều khó khăn, xong thầy và trò trường THCS chúng tôi vẫn ra sức tự rèn luyện mình, quyết tâm thực hiện tất cả các chỉ tiêu nhiệm vụ của từng năm học, xây dựng các chỉ tiêu nhiệm vụ của từng năm học, xây dựng các chỉ tiêu, biện pháp phù hợp với đặc thù tình hình của nhà trường, của môn học để đạt được kết quả mà cấp trên và xã hội công nhận được. Đặc biệt là đối với môn sinh học theo chương trình SGK đã đổi mới, chúng tôi sẽ nhanh chóng thực hiện tình trạng khó khăn trên ngay từ những lớp học đầu tiên của cấp học chứ không chỉ áp dụng cho những học sinh ở các lớp trên.
B. GiảI quyết vấn đề.
I. Các giảI pháp thực hiện:
Mức độ nội dung chương trình sinh học lớp 7 theo chương trình SGK đổi mới là khảo sát định tính các hiện tượng và quá trình sinh học của tự nhiên, đời sống và hiểu biết cuả học sinh. Các kết luận hầu hết có thể do học sinh tự lực rút ra trên cơ sở quan sát trực tiếp sự vật, hiện tượng kết hợp với những suy luận đơn giản.
Khối lượng nội dung của mỗi tiết học cần đáp ứng được những yêu cầu sau:
+ Tạo điều kiện cho học sinh có thể quan sát trực tiếp các mẫu vật (trong tự nhiên, đời sống)
+ Tạo điều kiện để học sinh thu thập và xử lý thông tin, nêu ra được các vấn đề cần tìm hiểu.
+ Tạo điều kiện để học sinh trao đổi nhóm tìm phương án giải quyết vấn đề, tiến hành thực hành, thảo luận kết quả và rút ra những kết luận cần thiết.
+ Tạo điều kiện để học sinh nắm được nội dung chính của bài học trên lớp.
II. Các biện pháp thực hiện:
Với những yêu cầu đặt ra như vậy trong quá trình dạy học học sinh tôi đã tiến hành thực hiện theo các biện pháp sau:
* Biện pháp 1: Thường xuyên Sử dụng phương pháp quan sát nghiên cứu tìm tòi và chia nhóm.
Phương pháp này học sinh tự lực quan sát, mô tả, phân tích đối tượng. Tự thu thập thông tin tự sử lý thông tin, bằng các câu hỏi.
Rút ra đặc điểm chung và riêng, đặc điểm bản chất của đối tượng, hiện tượng.
Ví dụ 1: 
Bài 18: 	Trai sông
Giáo viên: Cho học sinh chia nhóm và kiểm tra mẫu vật
1. Hình dạng, cấu tạo:
a. Vỏ trai:
Giáo viên: Cho học sinh tự quan sát hình 18.1; 18.2 SGK rồi kết hợp với mẫu vật tự thu thập thông tin.
Giáo viên: Cho các nhóm thảo luận câu hỉ SGK sau đó đại diện trả lời.
Học sinh: Tự rút ra kết luận.
- Vỏ trai được chia thành 3 lớp: + Lớp sừng
 + Lớp đá vôi
 +Lớp xà cừ
- Hình dạng ngoài: Đầu vỏ, đỉnh vỏ, bản lề vỏ, đuôi vỏ, vòng tăng trưởng.
? Căn cứ vào vòng đó xác định được điều gì ?
Học sinh: Xác định tuổi của trai.
? Muốn mở vỏ trai quan sát ta phải làm gì ?
Học sinh: Đại diện nhóm trả lời: Cắt dây chằng phía lưng cắt 2 cơ khép trào vỏ.
? Mài mặt ngoài của trai ngửi có mùi khét vì sao ?
Học sinh: Mài mặt ngoài -> Có mùi khét vì lớp sừng bằng chất hưu cơ bị ma sát -> chát -> mùi khét.
Giáo viên: Lớp xà cừ óng ánh có màu cầu vồng do tốc độ hình thành ở các mùa nóng lạnh trong nằm không giống nhau.
b. Cơ thể trai.
Học sinh: Cá nhân tự thu nhập thông tin trong sách và kết hợp với mẫu vật thật sau đó thảo luận câu hỏi SGK -> tự rút ra kết luận.
- Cơ thể có 2 mảnh vỏ đá vôi che chở bên ngoài.
- Cấu tạo: 
+ Ngoài: áo trai tạo thành khoang áo, có ống hút và ống thoát nước
+ Giữa: Tấm mang
+ Trong: Thân trai
+ Chân rìu
Giáo viên: Đầu trai bị tiêu giảm
2. Di chuyển:
Giáo viên: Cho học sinh quan sát sự di chuyển của con trai 
? Trai di chuyển như thế nào ?
Học sinh: Chân trai hình lưỡi rìu thô ra thụt vào kết hợp đóng mở -> di chuyển.
? Chân trai và thân trai có di chuyển cùn hướng không ?
Học sinh: Cùng hướng
3.Dinh dưỡng và sinh sản:
Học sinh: Làm việc độc SGK tự thu thập thông tin.
- Thảo luận nhóm tự rút ra kết luận.
- Thức ăn: ĐVNS và vụn hữu cơ, dinh dưỡng thụ động.
- Oxi trao đổi qua mang.
- Trai phân tính, trừng phát triển qua giai đoạn ấu trùng.
Giáo viên: Cho học sinh đọc phần kết luận chung để nắm vững bài hơn.
Giáo viên: Ra một số câu hỏi trăc nghiệm.
Ví dụ 2: 
Bài 31:	 Cá chép
Trước khi vào bài giáo viên cho cả lớp chia nhóm và kiểm tra mẫu vật.
Giáo viên: Chuẩn bị bảng phụ
1. Đời sống:
Giáo viên: Cho cá nhân (HS) tự nghiên cứu thu thập kiến thức trong sách giáo khoa và kết hợp với đời sống hàn ngày sau đó thảo luận trả lời các câu hỏi sau:
? Cá chép sống ở đâu ? thức ăn của chúng là gì ?
Học sinh: Sống ao hồ, sông suối, ăn động vật và thực vật.
? Tại sao nói cá chép là động vật biến nhiệt.
Học sinh: Nhiệt đọ cơ thể phụ thuộc vào môi trường.
? Vì sao số lượng trứng trong mỗi lứa đẻ của cá chép lại lên tới hàng vạn ? Số lượng nhiều như vậy có ý nghĩa gì ?
Học sinh: Khả năng trứng gặp tinh trùng ít, nhiều trứng không được thụ tinh. Số lượng nhiều để duy trì nòi giống ? Qua đầu rút ra kết luận gì về đời sống của cá chép.
- Môi trường sống: nước ngọt
- Đời sống: ưu vực nước lặng, ăn tạp.
- Là động vật biến nhiệt 
- Sinh sản: Thụ tinh ngoài, để trứng, trứng thụ tinh -> phôi
2. Cấu tạo ngoài 
a. Cấu tạo ngoài:
Học sinh: Bằng đối chiếu giữa mẫu vật và hình vẽ -> ghi nhớ các bộ phận cấu tạo ngoài.
Giáo viên: Cho các nhóm thảo luận các câu hỏi sau:
(Đại diện nhóm cầm con cá lên để chỉ từng bộ phận) 
-> Nhóm khác bổ sung
? Cơ thể cá được chia làm mấy phần ?
Học sinh: 3 phần:	+ Đầu 
+ Mình 
+ Khúc đuôi
? Mỗi phần như vậy gồm những bộ phận nào ?
Học sinh: Phần đầu: Miệng, sâu, mũi, mắt, mang
Phần mình: Vây lưng, vây bụng, vây ngực, hậu môn, cơ quan đường bên. 
Phần khúc đuôi: vây đuôi, vây hậu môn
Giáo viên: Ngoài các nhóm hoàn thành bảng: Đặc điểm cấu tạo ngoài của cá thích nghi với đời sống bơi lặn.
Học sinh: Đại diện nhóm lên điền -> nhóm khác bổ sung
Giáo viên: Treo bảng kiến thức chuẩn (Bảng phụ)
Học sinh: Các nhóm tự sửa chữa (nếu cần)
Đặc điểm cấu tạo ngoài
Sự thích nghi
1
B
2
C
3
E
4
A
5
G
 ? Trình bày đặc điểm ngoài của cá thích nghi với đời sống bơi lội.
Học sinh: Dựa vào bảng trả lời
b. Chức năng của vây cá:
Giáo viên: Cho học sinh các nhóm luộc từng loại vây mọt lại rồi quan sát sự di chuyển.
? Nêu vai trò của từng loại vây cá.
Học sinh: Đạo diện nhóm trả lời -> Nhóm khác bổ sung 
Giáo viên: Cho 1 em rút ra kết luận 
- Vây ngực, vây bụng: giữ thăng bằng, rẽ phải, rẽ trái lên xuống
- Vây lưng, vây hậu môn: giữ thăng bằng theo chiều dọc.
- Khúc đuôi mang vây đuôi: giữ chức năng chính trong sự di chuyển của cá.
Giáo viên: Cho học sinh đọc kết luận sách giáo khoa
Giáo viên: Treo bảng phụ có ghi câu hỏi để cá nhân tự làm. Hãy chọn những mục tương ứng của cột A với cột B trong bảng dưới đây:
Cột A
Cột B
Trả lời
1. Vây (ngực, bụng)
a. Giúp cá di chuyển về trước 
1 - b
2. Vây (lưng, hậu môn)
b. Giữ thăng bằng, rẽ trái, phải, lên xuống
2 - c
3. Khúc đuôi vây đuôi
c. Giữ thăng bằng theo chiều dọc 
3 - a
 Cuối mỗi tiết cần có bảng phụ ghi câu hỏi để củng cố lại kiến thức cho học sinh.
Ví dụ 3: 
Bài 22: Tôm sông
Giáo viên: Cho lớp chia nhóm và kiểm tra mẫu vật 
1. Cấu tạo và di chuyển
GV: Cho cá nhân tự cầm mẫu vật để quan sát cấu tạo ngoài.
? Cơ thể tôm chia làm mấy phần
HS: 2 phần: - Đầu - ngực
- Bụng
GV: Phần đầu và ngực gồm 13 đốt khớp lại với nhau nên gọi là giáp đầu - ngực.
a. Vỏ cơ thể:
HS: Tự sờ vào vỏ tôm, sau đó thảo luận trả lời câu hỏi -> nhóm khác theo dõi bổ sung.
? Vỏ được cấu tạo bằng gì? có tác dụng gì?
HS: Vỏ: Kitin ngấm can xi -> cứng che chở và làm chỗ bám cho cơ thể.
? Vì sao dưới tác dụng của nhiệt tôm chuyển màu hồng?
HS: Có sắc tố -> dưới tác dụng của nhiệt, các hạt bị chuyển màu
TT
Chức năng
Tên các phần phụ
Vị trí các phần phụ
Đầu - ngực
Bụng
1
Định hướng phát hiện mồi 
2 mắt kép, đôi râu
V
2
Giữ và xử lý mồi 
Chân hàm q
V
3
Bắt và bò 
Chân kìm, bò 
V
4
Bắt giữ thăng bằng ôm trứng 
Chân bơi 
V
5
Lái và giúp tôm nhảy 
Tấm lái
V
? Vì sao tôm (sống) có màu sắc khác nhau.
HS: Do môi trường sống
b. Các phần phụ và chức năng.
HS: các nhóm xem hướng dẫn SGK và kết hợp mẫu vật xác định các bộ phận của tôm.
GV: Cho học sinh cầm con tôm để trả lời các câu hỏi sau:
? Phần đầu ngực gồm những bộ phận nào?
HS: Hai mắt kép, đôi râu, chân hàm, chân kìm, 5 đôi chân bò 
Phần bụng: 5 đôi chân bơi (chân bụng), tấm lái
 GV: Cho các nhóm hoàn thành bảng chức năng phần phụ.
HS: Lên điền vào bảng phụ -> nhóm khác bổ sung.
GV: Treo bảng kiến thức chuẩn -> các nhóm tự sửa
GV: Cho 1 học sinh nhắc lại chức năng của phần phụ.
c. Di chuyển:
GV: Cho học sinh để tôm vào chậu nước, vào cái khay rồi lấy que đụng vào đuôi tôm xem hiện tượng.
? Tôm có mấy cách di chuyển?
HS: Bơi, bò, nhảy
2. Dinh dưỡng:
HS: Tự đọc thông tin SGK -> thu thập thông tin -> thảo luận câu hỏi trong sách.
HS: Đại diện nhóm trả lời -> nhóm khác bổ sung -> tự rút ra kết luận.
- Tiêu hoá: Tôm ăn tạp, thức ăn tiêu hoá ở dạ dày.
- Hô hấp: thở bằng mang
- Bài tiết: Qua tuyến bài tiết 
3. Sinh sản:
HS: Tự đọc thông tin trong SGK -> các nhóm thảo luận -> rút ra kết luận.
- Tôm phân tính: Đực có càng to và con cái ôm trứng (bảo vệ trứng)
? Vì sao ấu trùng tôm lột xác nhiều lần?
HS: Vì lớp vỏ cứng rắn bao bọc không lớn theo cơ thể.
GV: Cho học sinh đọc kết luận SGK.
GV: Treo bảng phụ, ghi bài tập để học sinh tự làm.
 * Biện pháp 2: Phát huy giờ thực hành do học sinh tự làm.
Đối với phương pháp này, học sinh nhận thức được mục đích của bài thực hành, tự lực tiến hành quan sát các bộ phận để tự thiết lập các mối quan hệ nhân quả, giải thích.
VD 4: 
Bài 16: Mổ quan sát giun đất.
GV: Kiểm tra mẫu vật của từng nhóm và phát đồ dùng thực hành sau đó nêu mục đích của bài.
1. Cách xử lý mẫu.
HS: Cá nhân tự đọc thông tin -> ghi nhớ kiến thức.
HS: Đại diện nhóm trình bày cách xử lý.
GV: Kiểm tra mẫu thực hành.
2. Quan sát cấu tạo ngoài:
GV: Yêu cầu các nhóm quan sát các đốt, vòng tơ, mặt lưng, mặt bụng, sử dụng kính lúp.
? Làm thế nào quan sát vòng tơ? mặt lưng,mặt bụng.
HS: Kéo giun trên giấy thấy lạo xạo, mặt lưng và mặt bụng dựa vào màu sắc.
GV: Các nhóm chú thích vào hình
HS: Đại diện nhóm điền vào tranh câm
3. Cách mổ:
GV: yêu cầu các nhóm đọc thông tin trong SGK -> ghi nhớ từng bước mổ -> kiểm tra sản phẩm.
HS: Đại diện lên trình bày - > nhóm khác bổ sung.
GV: Khi mổ ĐVKXS chú ý:
Mở mặt lưng, nhẹ tay đứng kéo ngắn, lách nội quang từ từ, ngâm vào nước.
4. Quan sát cấu tạo trong.
GV: Hướng dẫn còn học sinh theo dõi.
Dùng kéo nhọn tách nhẹ nội quang -> dựa vào hình 16.3A - 16.3B để xác định các cơ quan.
HS: Các nhóm hoàn thành, chú thích hình 16B và C.
GV: Gọi đại diện nhóm lên chữa trên tranh câm -> nhóm khác bổ sung.
* Kết luận chung:
GV: Gọi đại diện 1-3 nhóm:
+ Trình bày cách quan sát cấu tạo ngoài.
+ Trình bày thao tác mổ và quan sát cấu tạo trong.
+ Nhận xét và vệ sinh.
GV: Cho điểm 1 - 2 nhóm, viết bản thu hoạch.
Biện pháp 3: Tăng cường thực hành do giáo viên tiến hành.
- Phương pháp này do giáo viên tiến hành hoặc trình bày sắn (gọi là tư duy trực tiếp) bằng các câu hỏi và bài tập định hướng, giáo viên kích thích khả năng tìm tòi độc lập chủ động của học sinh để thu nhận thông tin, nêu giả thuyết, dự đoán kết quả, tìm ra kết luận về bản chất, tính quy luật, hiện tượng.
VD 5: 
Bài 36: Thực hành.
Quan sát cấu tạo trong của ếch đồng trên mẫu mổ.
Với dạng bài này giáo viên mổ sắn ếch để đủ cho các nhóm quan sát có sẵn bộ xương và mô hình não.
GV: Cho lớp chia nhóm.
1. Quan sát bộ xương ếch.
GV: Phát cho mỗi nhóm 1 bộ xương ếch rồi kết hợp với hình 36.1 để nhận biết trên xương.
HS:Các nhóm tự ghi nhớ kiến thức -> đại diện trả lời.
? Bộ xương ếch gồm có những phần nào?
HS: Xương đầu, xương cột sống, xương đai, xương chi.
? Bộ xương có chức năng gì?
HS: Tạo bộ khung nâng đỡ cơ thể,là nơi bám của cơ -> di chuyển, tạo thành khoang bảo vệ não, tuỷ sống và nội quan.
2. Quan sát da.
GV: Cho học sinh sờ tay lên da -> thảo luận.
? Da có đặc điểm gì? Nêu vai trò?
HS: Da trần (ẩm, ướt) mặt trong có nhiều mạch máu -> trao đổi khí.
 3. Quan sát nội quan: 
GV: Giới thiệu qua cách mổ ếch và cách làm cho nó bị chết.
GV: Yêu cầu học sinh quan sát hình, đố chiếu với mẫu mổ -> xác định vị trí hệ cơ quan.
GV: Yêu cầu chỉ từng hệ cơ quan trên mẫu mổ.
HS: Đại diện nhóm trình bày 
HS: Nghiên cứu bảng trang 118 -> thảo luận.
? Hệ tiêu hoá của ếch có gì khác so với cá?
HS: Lưỡi phóng ra bắt mồi, dạ dày, gan lớn có tuyến tuỵ.
? Vì sao ếch xuất hiện phối mà vẫn trao đổi khí qua da.
HS: Phổi đơn giản hô hấp qua da là chủ yếu.
? Tim ếch khác cá điểm nào?
HS: Tim 3 ngăn, 2 vòng tuần hoàn.
? Quan sát mô não ếch -> xác định các bộ phận não? 
GV: - Nhận xét tinh thần, thái độ của học sinh trong giờ thực hành.
- Nhận xét kết quả quan sát của học sinh.
- Cho học sinh thi dọn vệ sinh.
C. Kết luận
Là giáo viên vào ngành chưa lâu, song với năng lực phấn đấu của bản thân với sự hiểu biết thông qua việc nghiên cứu các tài liệu, chịu khó học hỏi kinh nghiệm của các đồng nghiệp đi trước, sự giúp đỡ tận tình của Ban giám hiệu và tổ trưởng chuyên môn và các giáo viên trong trường để đi đến kết quả thành công như ngày hôm nay.
Với mong muốn nâng cao chất lượng, tôi mạnh dạn áp dụng các phương pháp trên vào quá trình giảng dạy. Mong các đồng nghiệp góp ý cho tôi hoàn thành bản sáng kiến .
 	 Hồng Thủy, ngày 20 tháng 5 năm 2011
Người thực hiện
\
 Nguyễn Thị Vân Anh

File đính kèm:

  • docGAY HUNG THU HOC MON SINH 7.doc
Đề thi liên quan