Sáng kiến kinh nghiệm Kết hợp sử dụng một số ca khúc vào trong dạy học môn Đạo đức Lớp 4

doc38 trang | Chia sẻ: thuongnguyen92 | Lượt xem: 336 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Sáng kiến kinh nghiệm Kết hợp sử dụng một số ca khúc vào trong dạy học môn Đạo đức Lớp 4, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
A. MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
 Giáo dục đạo đức là một bộ phận rất quan trọng của quá trình sư phạm, đặc biệt là ở Tiểu học. Nó nhằm hình thành những cơ sở ban đầu về mặt đạo đức cho học sinh Tiểu học, giúp các em ứng xử đúng đắn qua các mối quan hệ đạo đức hằng ngày. Có thể nói, nhân cách của học sinh Tiểu học thể hiện trước hết qua bộ mặt đạo đức. Điều này thể hiện qua thái độ cư xử đối với ông bà, cha mẹ, anh chị em ruột trong gia đình, với thầy, cô giáo, bạn bè qua thái độ với học tập, rèn luyện hằng ngày... Đó là cơ sở quan trọng của việc hình thành những nguyên tắc, chuẩn mực đạo đức cao hơn ở các bậc học sau.
 Tuy nhiên,ở Tiểu học, cụ thể là ở lớp 4,mặc dù các thầy cô giáo đã được tập huấn đổi mới phương pháp giáo dục sao cho phù hơp với lứa tuổi học sinh, nhưng giờ học Đạo đức vẫn diễn ra một cách nặng nề, áp đặt. Nội dung bài học đạo đức tuy gần gũi với cuộc sống của hoc sinh, nhưng các em lại tiếp thu bài một cách thụ động, các em chỉ biết nhìn sách trả lời một cách máy móc theo yêu cầu của giáo viên. Qua thực tiễn, tôi thấy học sinh chưa thể hiện hết được nội dung các bài học đạo đức thông qua hành vi ứng xử hằng ngày với ông bà, cha mẹ, bạn bè, thầy cô...Để cải thiện thực trạng trên, tôi thấy có rất nhiều những câu ca dao, những bài hát chứa đựng nội dung giáo dục đạo đức sâu sắc, phù hợp với lứa tuổi học sinh của các em, mà nếu đưa chúng vào giảng dạy môn Đạo đức thì tôi tin rằng hoc sinh sẽ dễ dàng tiếp thu bài học hơn, hiệu quả tiết học sẽ cao hơn. Chính vì thế, tôi mạnh dạn chọn đề tài “Kết hợp sử dụng một số ca khúc vào trong dạy học môn Đạo đức lớp 4” để làm bài tập nghiên cứu khoa học giáo dục cho mình.
 2. Mục đích – Nhiệm vụ nghiên cứu
 - Nghiên cứu các bài hát để vận dụng phù hợp vào tiết dạy môn Đạo đức lớp 4 ở Tiểu học.
 - Nghiên cứu để thấy được tầm quan trọng của âm nhạc trong dạy học đạo đức lớp 4.
 - Nghiên cứu cơ sở lí luận liên quan đến đề tài.
 - Tìm hiểu thực tiễn việc dạy học môn Đạo đức lớp 4 ở trường Tiểu học Lập Lá.
 - Tìm hiểu việc kết hợp sử dụng một số ca khúc vào trong dạy học môn Đạo đức lớp 4.
 - Thiết kế một số giáo án dạy Đạo đức cho học sinh lớp 4 có sử dụng các ca khúc.
 3. Đối tượng – Phạm vi nghiên cứu
 - Đặc điểm những ca khúc sử dụng trong dạy học môn Đạo đức lớp 4.
 - Chương trình môn Đạo đức lớp 4.
 - Các loại sách tham khảo về âm nhạc trong chương trình SGK ở Tiểu học.
 - SGK và SGV Đạo đức lớp 4.
 4. Phương pháp nghiên cứu
 - Sưu tầm tài liệu
 - Tìm hiểu, phân tích, tổng hợp.
 - Trực quan.
 - Thực hành.
 5. Bố cục bài tập nghiên cứu khoa học
 Ngoài phần mở đầu và kết luận, bài tập nghiên cứu khao học giáo dục gồm có hai chương:
 Chương 1: Cơ sở lí luận và thực tiễn.
 Chương 2: Sử dụng một số ca khúc vào trong dạy học môn Đạo đức lớp 4.
B. NỘI DUNG
Chương 1 : CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
 1.1. Nghệ thuật âm nhạc
 1.1.1. Nghệ thuật âm nhạc trong đời sống con người
 Âm nhạc là một bộ phận không thể thiếu trong cuộc sống của con người. Âm nhạc có thể chia sẻ với chúng ta rất nhiều điều: Giải quyết những khó khăn trong cuộc sống, vơi đi những hờn giận vu vơ, đưa người về dĩ vãng, tìm lại tuổi thơ yêu dấu, nghe lòng bồi hồi, xao xuyến với tình yêu quê mẹ, với nắng ấm quê cha, sống dậy lòng tự hào Dân tộcNgay từ thời thượng cổ, âm nhạc đã được ra đời cùng với đời sống sinh hoạt và lao động sản xuất của các cộng đồng người nguyên thủy. Kể từ đấy, âm nhạc đã không ngừng được phát triển và hoàn thiện cùng năm tháng. Quả thật, âm nhạc có sức ảnh hưởng lớn đến con người, đến sự hình thành và phát triển nhân cách nơi mỗi người.
 Như các loại hình nghệ thuật khác, nội dung âm nhạc cũng phản ánh hiện thực của cuộc sống. Bằng nét đặc thù riêng của mình, âm nhạc đã phản ánh hiện thực cuộc sống một cách ước lệ và trừu tượng. Âm nhạc mô tả các sự vật, hiện tượng trong cuộc sống. Âm nhạc còn có thể thể hiện quan điểm sống, chuyển tải tư tưởng. Còn một phần rất quan trọng trong nội dung của âm nhạc là sự đánh giá thực tại trên quan điểm của Mỹ học, có nghĩa là đánh giá các sự vật, hiện tượng nhưng không phụ thuộc vào cách nhìn nhận thực tiễn, thực dụng về đối tượng ấy. Ví dụ khi ngắm nhìn cảnh mặt trời mọc, chúng ta thích ngắm nhìn nó vì nó đẹp chứ hoàn toàn không có ý nghĩ là mặt trời sẽ cung cấp năng lượng cho chúng ta, mặt trời sẽ sưởi ấm cho ta Có thể nói rằng, cách đánh giá trên quan điểm Mỹ học là một cách đánh giá “vô tư”. Đấy là những nội dung mà âm nhạc có thể chuyển tải. Và nội dung của âm nhạc có tính bất định. Tùy theo khả năng và đặc điểm tâm lý, quan điểm, sở thích, kinh nghiệm sống, trình độ văn hóa, của mỗi người mà ở họ có sự cảm nhận khác nhau về nội dung của cùng một bản nhạc.
 Với sự phối hợp nhuần nhuyễn, hài hòa giữa ca từ, nhịp điệu, tiết tấu bản nhạc, âm nhạc đã tác động lớn đến người nghe. Dù rằng sự cảm thụ âm nhạc ở mỗi người là khác nhau và có thể rất đa dạng. Nhưng chúng vẫn nằm trong một ranh giới nhất định và vẫn có những điểm chung nhất định. Điểm chung ấy dựa vào sức tác động của âm nhạc đối với con người.
 Trước hết, âm nhạc tác động lên phương diện sinh lý của con người. Sự tác động này hầu như ai cũng nhận thấy được. Bằng công trình nghiên cứu của mình, hai nhà sinh học người Nga, I.M.Đô ghen và I.R.Tackhanốp đã chứng minh rằng: Âm nhạc có ảnh hưởng đến hệ hô hấp, hệ tuần hoàn và đến những khía cạnh khác trong cơ thể người. Âm nhạc có thể khiến cho người nghe cảm thấy dễ chịu, cảm thấy nhẹ nhàng, thư thái. Và âm nhạc cũng có thể làm cho người nghe cảm thấy mệt mỏi, rã rời hay căng thẳng, khó chịu. Chính vì thế mà âm nhạc có ảnh hưởng không nhỏ đến năng suất lao động. Ngày trước, nhờ những câu hò ý vị, vui tươi trong khi gặt hái, trong khi giã gạo, trong khi cấy cày, tát nước, người lao động đã quên đi sự mệt nhọc, vất vả, hăng say hơn trong công việc. Ngày nay, trong các nhà máy, xí nghiệp, nếu biết sử dụng âm nhạc một cách khoa học thì năng suất lao động sẽ được nâng cao.
 Không chỉ có thế, âm nhạc còn tác động đến cảm xúc và tư tưởng của con người. Âm nhạc, nếu được cảm thụ một cách sâu sắc và thông minh thì sẽ tác động đến thế giới quan, đến toàn bộ ý thức của con người. Tác động trực tiếp, mạnh mẽ nhất của âm nhạc đối với con người là trong lĩnh vực tình cảm và tâm trạng của con người. Không một loại hình nghệ thuật nào khác ngoài âm nhạc lại có thể tác động với một uy lực như thế vào thế giới cảm xúc của con người.
 Sở dĩ âm nhạc có được sức ảnh hưởng lớn bởi vì âm nhạc là một loại hình nghệ thuật có tính biểu hiện. Ngôn ngữ của nó giống với ngữ điệu của tiếng nói và giống với cử chỉ, nghĩa là giống với phương tiện biểu hiện của cảm xúc. Chính sự khái quát hóa và tăng lên gấp nhiều lần những khả năng biểu hiện của ngữ điệu và tiết tấu, âm nhạc đã có được một sức mạnh tác động vào cảm xúc thật lớn lao. Hơn nữa, trong tác phẩm âm nhạc còn miêu tả những điều mà chúng ta thích thú và quan tâm trong thực tiễn. Âm nhạc có sự tái hiện những âm thanh đầy sức hấp dẫn của thiên nhiên, thể hiện những cảm xúc dễ chịu và đáp ứng nhu cầu tìm hiểu của chúng ta.
 Có một vai trò của âm nhạc mà không ai có thể phủ nhận được, đó là sự tham gia và hỗ trợ trong các dịp lễ hội và nghỉ ngơi cộng đồng, trong sự chuyển động của tập thể (diễu hành), dùng làm phương tiện để nghỉ ngơi, giải trí.
 Chính vì âm nhạc tác động lên mặt xúc cảm và tư tưởng nên âm nhạc đóng vai trò không kém phần quan trọng trong việc giáo dục con người, nhất là thế hệ trẻ. Có thể thông qua âm nhạc để giáo dục tư tưởng, đạo đức cho người nghe. Những nhân vật tích cực, những tấm gương đạo đức cao cả và cả hình tượng những con người bị giày vò bởi sự đấu tranh nội tâm khổ sở, những con người sống dằn vặt và không thỏa mãn được đề cập đến trong bản nhạc đã ảnh hưởng đến tình cảm đạo đức của con người, nâng người nghe lên một tầm cao bao la về đạo đức. Những tác phẩm âm nhạc diễn tả những tư tưởng, tình cảm đạo đức cao đẹp như tình yêu quê hương, đất nước, lòng tự hào Dân tộc, tình bạn, tình yêu, tình huynh đệ, tình phụ tử, tình mẫu tử, luôn đóng một vai trò giáo dục đặc biệt có ý nghĩa. Âm nhạc đã đánh thức lương tâm, thức tỉnh một sự bồn chồn cao quý, một nỗi niềm lo lắng thiêng liêng: Mình đã làm được điều tốt đó chưa? Mình đã sống tốt chưa? Mình có xứng với cái đẹp ấy không? Liệu mình còn đủ sức để hoàn thiện bản thân hơn nữa không? Những điều ấy tạo nên nội lực thúc đẩy người nghe vươn tới sự toàn thiện, toàn mỹ.
 Bên cạnh những ảnh hưởng tích cực, có những loại âm nhạc có thể tác động tiêu cực đến con người. Những ca khúc trữ tình chứa đựng những tình cảm không lành mạnh, sướt mướt hay suồng sã, nó có thể tác hại lớn đến đạo đức con người. Nó là kẻ đưa đường nhẹ nhàng nhất cho sự băng hoại đạo đức, suy sụp về tinh thần. Có những bản nhạc mà khi nghe nó thì người nghe cảm thấy buồn rã rượi, chán nản, yếu đuối, nhu nhược Và cũng có những bản nhạc làm cho người nghe phấn khích quá độ, trở nên cuồng nhiệt, không làm chủ được hành vi của mình, dẫn đến những hành động sai trái.
 Vì âm nhạc có sức ảnh hưởng lớn như thế cho nên các bậc phụ huynh, những người làm công tác giáo dục cần phải lưu tâm nhiều hơn nữa về vấn đề này. Trong nhà trường, trong các sinh hoạt tập thể nên lựa chọn những loại âm nhạc có nội dung lành mạnh, phù hợp với lứa tuổi của các em để dạy cho các em, để cho các em nghe. Trong gia đình, các bậc phụ huynh nên khuyên nhủ và định hướng cho con em mình lựa chọn âm nhạc để nghe, hướng dẫn cho các em biết cách cảm thụ âm nhạc. Cần tìm hiểu sở thích âm nhạc của các em trong giáo dục. Qua sở thích về âm nhạc của các em, chúng ta có thể biết được phần nào tính khí và phẩm chất đạo đức của các em.
 Như vậy, âm nhạc có nhiều vai trò quan trọng trong đời sống xã hội. Nhưng các vai trò ấy chúng gắn bó chặt chẽ với nhau, nhiều khi chúng hòa quyện vào nhau, khó có thể phân định rạch ròi.Cuộc sống mà không có âm nhạc thì cuộc sống sẽ trở nên rất tẻ nhạt và trầm lắng.
 1.1.2.Âm nhạc là phương tiện tích cực góp phần giáo dục thẩm mỹ, đạo đức, trí tuệ và thể chất cho học sinh tiểu học.
 Là một trong các loại hình nghệ thuật, âm nhạc cũng như các bộ môn nghệ thuật khác, được xem là phương tiện hiệu quả nhất để giáo dục thẩm mỹ cho trẻ một cách sâu sắc, tích cực và có mục đích. Giáo dục thẩm mỹ âm nhạc là phát triển ở trẻ khả năng lĩnh hội cảm thụ và hiểu cái đẹp, phân biệt được cái hay, cái dở, hoạt động độc lập và sáng tạo trong khi tiếp xúc với các dạng hoạt động âm nhạc khác nhau. Đồng thời, âm nhạc còn giúp trẻ biết cách cảm nhận và biết rung động trước cái đẹp của sự vật, hiện tượng xung quanh. Nếu như giáo dục quan hệ thẩm mỹ của trẻ với nghệ thuật nói chung, với âm nhạc nói riêng được tiến hành một cách có hệ thống, ở nhiều giai đoạn với các mức độ khác nhau thì thái độ thẩm mỹ của trẻ cũng được thể hiện rõ trong sự quan tâm đến sự vật, hiện tượng thiên nhiên và xã hội, ảnh hưởng đến cách xem xét, nhìn nhận thế giới xung quanh và cái đẹp của cuộc sống. Trên cơ sở ấy, góp phần đạt được mục đích giáo dục đã đề ra.
 Âm nhạc không chỉ tác động tới tình cảm của trẻ mà đồng thời còn hình thành ở trẻ những phẩm chất đạo đức tốt đẹp. Trong chương trình học, mỗi tác phẩm âm nhạc là mỗi thể loại, nội dung khác nhau đem đến cho trẻ những xúc cảm, tình cảm đạo đức khác nhau. Âm nhạc gợi cho trẻ tình yêu quê hương đất nước, tình yêu thương con người, lòng biết ơn những chiến sĩ đã chiến đấu hy sinh anh dũng cho độc lập tự do của tổ quốc, đem đến cho trẻ những cảm xúc trữ tình, niềm tự hào dân tộc. Mở mang sự hiểu biết cho trẻ về các dân tộc khác, khơi dậy trong lòng trẻ tình hữu nghị cộng đồng, quốc tế.
 Khi hoạt động âm nhạc, trẻ được cùng nhau vui chơi múa hát, hình thành ở trẻ tính đồng cảm, ý thức tổ chức của tập thể, tinh thần kỷ luật. Tham gia biểu diễn các bài hát, điệu múa và trò chơi âm nhạc giúp những trẻ nhút nhát thêm mạnh dạn, tự tin trong cuộc sống, dễ dàng hòa nhập với tập thể các bạn.
 Bên cạnh đó, âm nhạc cũng ảnh hưởng đến văn hóa chung trong hành vi của trẻ. Sự thay đổi luân phiên các dạng hoạt động tạo sự chú ý cho trẻ, tập quen với phản xạ, giáo dục trẻ biết kiềm chế điều khiển các vận động để phù hợp với giai điệu – tiết tấu cũng như nội dung âm nhạc.
 Như vậy, giáo dục âm nhạc đã tạo ra được những điều kiện cần thiết đối với việc hình thành những phẩm chất đạo đức trong nhân cách ở trẻ, đặt cơ sở cho sự hình thành văn hóa chung cho chủ nhân tương lai của đất nước.
 Quá trình cảm thụ âm nhạc gắn bó chặt chẽ với sự phát triển trí tuệ của trẻ. Khi lắng nghe nhạc, trẻ phải tập trung quan sát, chú ý, ghi nhớ, phân tích, so sánh độ cao – thấp, dài – ngắn của các âm thanh để nhận biết các hướng tiến hành của giai điệu. Khi đó trẻ được tiếp xúc với tiết tấu, nhịp độ, cường độ của âm thanh. Từ đó trẻ dần dần ghi nhớ lại những đặc điểm, tính chất các hình tượng âm nhạc. Cùng với việc thử đánh giá cái đẹp trong âm nhạc thì đòi hỏi trí tuệ của trẻ cũng phải hoạt động một cách tích cực.
 Trong quá trình tập hát, ghi nhớ của trẻ được rèn luyện, trẻ tiếp thu các tiết tấu âm nhạc, đường nét giai điệu, các hình tượng âm nhạc, lời ca dí dỏm, giản dị, gần gũi với cuộc sống của các tác phẩm âm nhạc. Thông qua đó, trẻ vừa được làm quen với văn hóa nhân loại vừa được tiếp xúc với nền văn hóa dân tộc. Hoạt động ca hát cung cấp cho trẻ một số lượng về vốn từ, nhằm phát triển ngôn ngữ mạch lạc, phát âm chuẩn tiếng mẹ đẻ, ý nghĩa lời nói mang sắc thái biểu cảm.
 Nội dung giáo dục âm nhạc phân phối theo từng độ tuổi và phân theo sự tăng dần, ngày càng khó và phức tạp hơn. Vì vậy, đòi hỏi sự tích cực tư duy, tưởng tượng sáng tạo của trẻ cũng ngày một tăng lên.
 Âm nhạc được coi là phương tiện tốt nhất để phát triển cơ quan thính giác. Ca hát giúp trẻ củng cố cơ quan phát âm, hít thở sâu, tránh việc nói lắp nói ngọng, đẩy mạnh chức năng hoạt động của các cơ quan phát thanh, hô hấp, tạo điều kiện góp phần làm cho giọng nói của trẻ tốt hơn. Và khi đó, sự phối hợp rèn luyện giữa tai nghe và miệng hát dần dần được hoàn thiện.
 Tính chất đa dạng của âm nhạc tác động tới tình cảm, cảm xúc của trẻ, tạo ra trong cơ thể trẻ những phản ứng gắn với sự thay đổi về nhịp tim mạch, sự tuần hoàn máu, hệ hô hấp, sự giãn nở cơ và các quá trình sinh lý khác hổ trợ cho sự phát triển về thể chất.
 Như vậy, âm nhạc nói chung và giáo dục âm nhạc ở trường Tiểu học nói riêng đã tạo điều kiện hình thành phát triển nhân cách cho trẻ. Mối liên hệ giữa tất cả các mặt giáo dục thể hiện trong các dạng, các hình thức phong phú của hoạt động âm nhạc. Sự nhạy cảm và tai nghe âm nhạc được phát triển trong những mức độ phù hợp sẽ giúp trẻ hưởng ứng với những tình cảm hành vi tốt đẹp, đẩy mạnh hoạt động trí thức thường xuyên hoàn thiện mọi vận động, thể chất ở trẻ. Nhận thức đúng đắn và sâu sắc tác dụng giáo dục toàn diện của âm nhạc đối với trẻ là điều cần thiết đầu tiên để tiến hành tốt việc giáo dục âm nhạc cho trẻ.
 1.2.Hoạt động dạy học môn Đạo đức lớp 4
 1.2.1.Mục tiêu, nhiệm vụ của môn Đạo đức lớp 4
 Môn Đạo đức lớp 4 nhằm giúp học sinh:
 Về kiến thức
 Có hiểu biết ban đầu về một số chuẩn mực hành vi đạo đức và pháp luật phù hợp với lứa tuổi học sinh lớp 4 trong các mối quan hệ của các em với ông bà, cha mẹ ; với các thầy, cô giáo ; với lao động và người lao động ; với những người gặp khó khăn, hoạn nạn ; với mọi người khi giao tiếp ; trong việc giữ gìn các công trình công cộng, bảo vệ môi trường và thực hiện Luật giao thông ; trong việc thực hiện quyền được có ý kiến và bày tỏ ý kiến ; trong việc tiết kiệm tiền của, thời giờ và thực hiện nhiệm vụ học tập của bản thân.
 Về kĩ năng
 Từng bước hình thành kĩ năng bày tỏ ý kiến, thái độ của bản thân đối với những quan niệm, hành vi, việc làm có liên quan đến các chuẩn mực đã học ; kĩ năng lựa chọn cách ứng xử phù hợp chuẩn mực trong các tình huống biết thực hiện các chuẩn mực đã học trong cuộc sống hằng ngày.
 Về tình cảm, thái độ
Yêu thương ông bà, cha mẹ ; kính trọng, biết ơn thầy giáo, cô giáo và những người lao động ; thông cảm với những người gặp khó khăn, hoạn nạn ; tôn trọng mọi người khi giao tiếp ; 
Có ý thức trung thực, vượt khó trong học tập, tiết kiệm trong cuộc sống ;
Có ý thức tôn trọng các quy định về giữ gìn các công trình công cộng, bảo vệ môi trường và thực hiện Luật Giao thông.
 1.2.2.Nội dung – chương trình của môn Đạo đức lớp 4
* Chương trình môn Đạo đức lớp 4 bao gồm 14 bài, đề cập đến các chuẩn mực hành vi trong các mối quan hệ :
Quan hệ với bản thân
Trung thực trong học tập
Vượt khó trong học tập
Biết bày tỏ ý kiến
Tiết kiệm tiền của
Tiết kiệm thời giờ
Quan hệ với gia đình
Hiếu thảo với ông bà, cha mẹ
Quan hệ với nhà trường
Kính trọng, biết ơn thầy giáo, cô giáo
Quan hệ vói cộng đồng, xã hội
Yêu lao động
Kính trọng, biết ơn người lao động
Lịch sự với mọi người
Giữ gìn các công trình công cộng
Tích cực tham gia các hoạt động nhân đạo
Tôn trọng Luật Giao thông
Quan hệ với môi trường tự nhiên
Bảo vệ môi trường
* Nội dung môn Đạo đức lớp 4 kết hợp giữa giáo dục quyền trẻ em với giáo dục bổn phận của học sinh
Dưới đây là nội dung một số quyền trẻ em, GV cần lưu ý khai thác khi dạy các bài cụ thể trong chương trình Đạo đức lớp 4 :
Bài số
Tên bài
Nội dung khai thác quyền trẻ
em cần khai thác, tích hợp
Bài 1
Trung thực trong học tập
Quyền được học tập của trẻ em
Bài 2
Vượt khó trong học tập
Quyền được học tập của trẻ em
Bài 3
Biết bày tỏ ý kiến
Quyền được có ý kiến và bày tỏ ý kiến về các vấn đề có liên quan đến trẻ em
Bài 6
Hiếu thảo với ông bà, cha mẹ
Quyền được có gia đình, quyền được gia đình quan tâm, chăm sóc
Bài 7
Biết ơn thầy giáo, cô giáo
Quyền được giáo dục, quyên được học tập
Bài 11
Giữ gìn các công trình công cộng
Quyền được vui chơi, giải trí
Bài 12
Tích cực tham gia các hoạt động nhân đạo
Quyền được hỗ trợ, giúp đỡ khi gặp khó khăn
Bài 13
Tôn trọng Luật Giao thông
Quyền được đảm bảo an toàn
Bài 14
Bảo vệ môi trường
Quyền được sống trong môi trường trong lành
 Nội dung chương trình không chỉ giáo dục bổn phận, trách nhiệm của học sinh đối với gia đình, nhà trường, xã hội, môi trường tự nhiên mà còn giáo dục các em có trách nhiệm đối với chính bản thân mình.
 Thông qua các bài Đạo đức lớp 4, HS còn được giáo dục một số kĩ năng sống cơ bản như : kĩ năng giao tiếp ( biết lắng nghe, biết bày tỏ ý kiến, quan tâm, chăm sóc đối với ông bà, cha mẹ ; kính trọng thầy, cô giáo và những người lao động,), kĩ năng ra quyết định, kĩ năng giải quyết vấn đề, kĩ năng đạt mục tiêu,
 Tổng thời lượng dành cho môn Đạo đức lớp 4 là 35 tiết/năm, được phân phối như sau :
 14 bài x 2 tiết = 28 tiết
 Dành cho địa phương: 3 tiết
 Ôn tập học kì I : 1 tiết
 Kiểm tra học kì I : 1 tiết
 Ôn tập cuối năm : 1 tiết
 Kiểm tra cuối năm : 1 tiết
 Cộng : 35 tiết
 Trong chương trình có 3 tiết để các địa phương sử dụng dạy những vấn đề cần thiết của lớp, trường, địa phương. Nội dung, phương thức, thời điểm, quy mô dạy học các tiết học này do Sở giáo dục và Đào tạo, Phòng Giáo dục và Đào tạo hoặc nhà trường quy định.
 1.3. Thực tiễn của việc dạy học môn Đạo đức lớp 4 trường Tiểu học Lập Lá
 1.3.1. Về học sinh
 1.3.1.1. Đặc điểm, hứng thú và thái độ học tập của học sinh
 Ở lứa tuổi mẫu giáo, các em đã được cung cấp những chuẩn mực đạo đức ở mức độ sơ giản như khi đi phải xin phép, khi về phải chào hỏi. Bước vào các lớp đầu cấp của bậc Tiểu học, các em được tiếp tục học cách ứng xử nhưng ở mức độ cao hơn như là chào hỏi và xin phép như thế nào cho đúng và phù hợp.
 Tuy nhiên, đối tượng học sinh ở trường Tiểu học Lập Lá đa số là dân tộc thiểu số, nên việc tiếp thu các chuẩn mực đạo đức còn nhiều hạn chế, các em ít nói, thụ động trong giờ học, và không hào hứng mỗi khi đến giờ học Đạo đức, giờ học trôi qua nặng nề. Các em chỉ biết thực hành và trả lời một cách máy móc theo sách giáo khoa chứ không hiểu nội dung của bài học giúp cho mình những gì trong cuộc sống. Sau mỗi bài học Đạo đức, các em chưa biết vận dụng vào thực tế. Chẳng hạn, các em vừa được học bài Trung thực trong học tập xong thì lại mở vở, sách xem bài trong tiết kiểm tra ngay sau đó. Các em vừa được học bài Lễ phép, biết ơn thầy cô giáo, nhưng vừa ra khỏi lớp là chỉ chào cô giáo dạy mình còn gặp những thầy cô khác thì lại lơ đi. Hoặc khi học xong bài Bảo vệ môi trường, một số em vẫn còn vứt rác bừa bãi trong lớp học, ngoài sân trường
 1.3.1.2. Kết quả học tập của học sinh
Lớp
Số HS
Hoàn thành tốt
Hoàn thành
Chưa hoàn thành
SL
TL
SL
TL
SL
TL
4A
24
2
8,3%
16
66,7%
6
25%
4B
25
4
16%
16
64%
5
20%
4C
24
4
16,7%
18
75%
2
8,3%
 1.3.2. Về giáo viên và phương pháp dạy học môn Đạo đức
 Qua dự giờ thăm lớp và bản thân tôi cũng là giáo viên giảng dạy môn học này, tôi có vài nhận xét về tình hình dạy học môn Đạo đức lớp 4 ở trường tôi như sau: 
* Những ưu điểm chính: 
 - Đã xuất hiện giờ dạy đúng theo tinh thần đổi mới phương pháp dạy học đạo đức. Nếu trước đây chỉ thông qua câu chuyện kể để giáo dục bổn phận của người học sinh thì nay đã biết kết hợp từ dạy quyền đến bổn phận bằng nhiều cách, tránh được cách dạy nặng nề, áp đặt trước đây.
 - Một bộ phận GV đã gia công soạn kế hoạch bài học, cụ thể hóa được hoạt động của thầy, của trò phù hợp với đặc điểm lớp học.
 - Nhiều GV đã tiếp cận với phương pháp bộ môn như thảo luận nhóm, đóng vai, tổ chức vui chơi, xử lý tình huốngĐể chuyển tải các nội dung giáo dục đạo đức đến học sinh một cách tích cực, sinh động.
 - Một số tiết dạy đã khai thác tốt tất cả bài luyện tập, thực hành nhằm cung cấp kiến thức và tạo hứng thú học tập cho học sinh.Qua dẫn dắt của GV, học sinh tham gia nhiều hoạt động để tự phát hiện và chiếm lĩnh nội dunng bài học.
 - GV được hướng dẫn cách xây dựng thiết kế bài học theo hướng mới, có phân chia hoạt động cụ thể rõ ràng và đã được qua một năm thực nghiệm.
 - Phương tiện dạy học chủ yếu trong giờ đạo đức là vở bài tập đạo đức, với nội dung nhẹ nhàng, giúp GV truyền thụ bài cũng như học sinh tiếp nhận một cách dễ dàng hơn.
* Những hạn chế, thiếu sót :
 - Khi dạy môn Đạo đức lớp 4, một số GV chưa sử dụng các phương pháp dạy học có hiệu quả, chưa linh hoạt kết hợp chặt chẽ bổ sung giữa các phương pháp dạy học, dẫn đến học sinh chỉ nắm vũng lý thuyết mà không làm theo những điều các em đã học.
 - Một số GV chưa mạnh dạn đổi mới phương pháp dạy học đạo đức nên vẫn còn tình trạng truyền thụ kiến thức một chiều, có biểu hiện dành một tiết để giảng giải kiến thức bài học và luyện tập thực hành ở tiết hai hoặc không yêu cầu học sinh nhận xét câu trả lời của bạn. Việc tổ chức các hoạt động trong giớ dạy còn mang tính áp đặt, hình thức nên chưa phát huy tính tích cực, chủ động của học sinh trong học tập, nhất là hoạt động thảo luận nhóm.
 - Chưa xây dựng nề nếp bộ môn ngay từ đầu năm học, dẫn đến khi tổ chức hoạt động thường lúng túng, mất thời giờ và dẫn đến tình trạng dạy lố giờ. Ngược lại, còn có vài GV vẫn dạy theo kiểu cũ nên chỉ 15 – 20 phút là hết nội dung bài dạy.
 - Khi khai thác nội dung bài, thường chỉ quan tâm đến học sinh khá giỏi, chưa gợi mở để cả lớp tham gia xây dựng bài. Nhiều GV vẫn giữ kiểu làm việc: thầy hỏi – trò trả lời, dẫn đến tình trạng học sinh ỷ lại không tự động não. Vẫn còn tình trạng GV đặt câu hỏi khó, cao so với trình độ học sinh hoặc so với yêu cầu bài học theo chuẩn kiến thức kĩ năng.
 - Vẫn còn một số GV coi nhẹ môn học này, giảng dạy còn qua loa, hoặc chưa quan tâm đúng mức đến hoạt động nối tiếp, là bước quan trọng để học sinh chuẩn bị bài học tuần sau.
 - Một số GV không coi trọng thiết bị dạy học, ngại sử dụng đồ dùng dạy học. GV thao tác đồ dùng còn lúng túng hoặc chưa nắm chắc ý đồ của sách giáo khoa để sử dụng đồ dùng dẫn đến học sinh chưa thích thú với tiết học.
 - Ở tiết Đạo đức có sử dụng nhiều hoạt động nên một số GV chưa nhiệt tình và thường ngại tổ chức các hoạt động như sắm vai, trò chơi, thảo luận,vì sợ mất thời gian. Do vậy, dẫn đến học sinh phải đóng vai trò thụ động, hoặc áp đặt khi lĩnh hội kiến thức, dẫn đến hiệu quả của tiết đạo đức chưa cao.
Chương 2: SỬ DỤNG MỘT SỐ CA KHÚC VÀO TRONG DẠY HỌC MÔN ĐẠO ĐỨC LỚP 4
 2.1. Ca khúc thiếu nhi và vai trò của nó trong giáo dục đạo đức cho học sinh tiểu học
 2.1.1. Ca khúc và ca khúc thiếu nhi
 * Vài nét về ca khúc :
 Ca khúc còn gọi là bài hát ( tiếng Pháp : chanson ) thường dùng để chỉ một thể loại của thanh nhạc, hơn thế nữa nó là một trong những thể loại đơn giản của thanh nhạc.
 Đặc điểm đầu tiên của ca khúc ( cũng là đặc điểm chung của thanh nhạc ) là có lời ca, nếu các tác phẩm khí nhạc được thể hiện nội dung hoàn toàn bằng các hình tượng âm thanh thì thanh nhạc còn có sự tham gia biểu diễn của ngôn từ (lời ca ), vì vậy, trong thanh nhạc nói chung hay trong ca khúc nói riêng, ca từ giúp cho người nghe dễ tiếp thu tác phẩm, có nơi, có lúc người ta thưởng thức lời ca là chính. Ca từ trong ca khúc là cả một “ nghệ thuật”, là vấn đề gây nhiều tranh cãi, bàn luận đối với nhạc Việt trong thời gian dài vừa qua.
 Vì là tác phẩm viết cho giọng người trình diễn nên ca khúc vừa có âm vực (độ rộng ) phù hợp với tầm cữ giọng người – âm vực rất khiêm nhường so với âm vực các tác phẩm khí nhạc. Thông thường, ca khúc viết cho thiếu nhi có âm vực trong vòng 1 quãng 8, với người lớn thông thường là 1 quãng 12, với những giọng hát

File đính kèm:

  • docDe tai nguyen cuu khoa hoc.doc