Sáng kiến kinh nghiệm Lạm phát và các giải pháp chống lạm phát ở nước ta hiện nay

pdf24 trang | Chia sẻ: hong20 | Lượt xem: 534 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Sáng kiến kinh nghiệm Lạm phát và các giải pháp chống lạm phát ở nước ta hiện nay, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
 1 
LỜI NÓI ĐẦU 
Trong nền kinh tế thị trường hoạt động đầy sôi động và cạnh tranh gay 
gắt để thu được lợi nhuận cao và đứng vững trên thương trường, các nhà kinh 
tế cũng như các doanh nghiệp phải nhanh chóng tiếp cận, nắm bắt những vấn 
đề của nền kinh tế mới. Một trong những vấn đề kinh tế nổi cộm hiện nay là 
lạm phát. Lạm phát như một căn bệnh của nền kinh tế thị trường, nó là một 
vấn đề hết sức phức tạp đòi hỏi sự đầu tư lớn về thời gian và trí tuệ mới có thể 
mong muốn đạt kết quả khả quan. Kiểm soát lạm phát là nhiệm vụ của chính 
phủ. Lạm phát ảnh hưởng đến toàn bộ nền kinh tế quốc dân, đến đời sống xã 
hội, đặc biệt là giới lao động. Ở Việt Nam hiện nay, kiểm soát lạm phát, giữ 
vững nền kinh tế phát triển ổn định, cân đối là mục tiêu rất quan trọng trong 
phát triển kinh tế xã hội, nâng cao đời sống nhân dân. 
Bài viết với đề tài: "Lạm phát và các giải pháp chống lạm phát ở nước 
ta hiện nay" 
Hà Nội, tháng 7 năm 2006 
 2 
1. Lý luận chung về lạm phát 
1.1. Khái niệm lạm phát 
- Lạm phát là một phạm trù vốn có của nền kinh tế thị trường, nó xuất 
hiện khi các yêu cầu của các quy luật kinh tế hàng hoá không được tôn trọng, 
nhất là quy luật lưu thông tiền tệ. Ở đâu còn sản xuất hàng hoá, còn tồn tại 
những quan hệ hàng hoá tiền tệ thì ở đó còn tiềm ẩn khả năng xảy ra lạm phát 
và lạm phát chỉ xuất hiện khi các quy luật của lưu thông tiền tệ bị vi phạm. 
- Trong bộ "Tư bản" nổi tiếng của mình C. Mác viết: "Việc phát hành 
tiền giấy phải được giới hạn ở số lượng vàng hoặc bạc thực sự lưu thông nhờ 
các đại diện tiền giấy của mình". Điều này có nghĩa là khi khối lượng tiền 
giấy do Nhà nước phát hành vào lưu thông vượt quá số lượng vàng mà nó đại 
diện thì giá trị của tiền giấy giảm xuống và tình trạng lạm phát xuất hiện. 
- Một định nghĩa nữa về lạm phát do các nhà kinh tế học hiện đại đưa ra 
và nó được sử dụng rộng rãi trong lĩnh vực nghiên cứu thị trường: "Lạm phát 
là sự tăng lên của mức giá trung bình theo thời gian". 
- Lạm phát được đặc trưng bởi chỉ số lạm phát. Nó chính là GNP danh 
nghĩa/GNP thực tế. Trong thực tế nó được thay thế bằng tỷ số giá tiêu dùng 
hoặc chỉ số giá bán buôn Ip = ip . d 
d: chỉ số giá cả từng loại nhómhàng 
d: tỷ trọng mức tiêu dùng của từng loại hàng. 
1.2. Phân loại lạm phát 
- Lạm phát vừa phải: Còn gọi là lạm phát một con số, có tỷ lệ lạm phát 
dưới 10% một năm. Lạm phát vừa phải làm cho giá cả biến động tương đối. 
Trong thời kỳ này nền kinh tế hoạt động bình thường, đời sống của người lao 
động ổn định. Sự ổn định đó được biểu hiện: giá cả tăng lên chậm, lãi suất 
tiền gửi không cao, không xảy ra với tình trạng mua bán và tích trữ hàng hoá 
với số lượng lớn 
Có thể nói lạm phát vừa phải tạo tâm lý cho người lao động chỉ trông 
chờ vào thu nhập. Trong thời gian này các hãng kinh doanh có khoảng thu 
nhập ổn định, ít rủi ro nên sẵn sàng đầu tư cho sản xuất, kinh doanh. 
 3 
- Lạm phát 2 con số : Lạm phát xảy ra khi giá cả tăng tương đối nhanh 
với tỷ lệ 2 con số 1 năm. Ở mức 2 con số, lạm phát làm cho giá cả chung tăng 
lên nhah chóng, gây biến động lớn về kinh tế, các hợp đồng được chỉ số hoá. 
Lúc này người dâ tích trữ hàng hoá, vàng bạc, bất động sản và không bao giờ 
cho vay tiền ở mức lãi suất bình thường. Loại này khi đã trở nên vững chắc sẽ 
gây ra những biến dạng kinh tế nghiêm trọng. 
- Siêu lạm phát: xảy ra khi lạm phát đột biến tăng lên với tốc độ cao 
vượt xa lạm phát phi mã, nó như một căn bệnh chết người, tốc độ lưu thông 
tiền tệ tăng kinh khủng, giá cả tăng nhanh và không ổn định, tiền lương thực 
tế của người lao động bị giảm mạnh, tiền tệ mất giá nhanh chóng, thông tin 
không còn chính xác, các yếu tố thị trường biến dạng và hoạt động sản xuất 
kinh doanh lâm vào tình trạng rối loạn. Tuy nhiên siêu lạm phát rất ít khi xảy ra. 
Lịch sử của lạm phát cũng chỉ ra rằng, lạm phát ở các nước đang phát triển 
thường diễn ra trong thời gian dài, vì vậy hiệu quả của nó phức tạp và trầm trọng 
hơn. Vì vậy các nhà kinh tế đã chia lạm phát thành 3 loại: 
Lạm phát kinh niên kéo dài trên 3 năm với tỷ lệ lạm phát dưới 50% một 
năm; lạm phát nghiêm trọng thường kéo dài trên 3 năm với tỷ lệ lạm phát trên 
50%; siêu lạm phát kéo dài trên một năm với tỷ lệ lạm phát trên 200% một năm. 
1.3. Nguyên nhân gây ra lạm phát 
a) Lạm phát theo thuyết tiền tệ: 
 Kinh tế đi vào lạm phát, đồng tiền mất giá có nhiều nguyên nhân 
dẫn đến lạm phát. Chẳng hạn thời tiết không thuận, mất mùa, nông dân thu 
hoạch thấp, giá lương thực tăng lên. Giá nguyên vật liệu tăng làm cho giá 
hàng tiêu dùng tăng lên. Khi tiền lương tăng, chi phí sản xuất cũng tăng theo, 
dẫn đến giá các mặt hàng cũng tăng. Tăng lương đẩy giá lên cao. Tóm lại, lạm 
phát là hiện tượng tăng liên tục mức giá chung và có thể giải thích theo 3 
cách. 
- Theo học thuyết tiền tệ, lạm phát là kết quả của việc tăng quá thừa 
mức cung tiền. 
 4 
- Theo học thuyết Keynes, lạm phát xảy ra do thừa cầu về hàng hoá và 
dịch vụ trong nền kinh tế (do cầu kéo). 
- Theo học thuyết chi phí đẩy, lạm phát sinh ra do tăng chi phí sản xuất 
(chi phí đẩy). 
Trên thực tế lạm phát là kết quả của tổng thể 3 nguyên nhân trên, mỗi 
nguyên nhân có vai trò khác nhau ở mỗi thời điểm khác nhau. 
Mức cung tiền là một biến số duy nhất trong đẳng thức tỷ lệ lạm phát, 
mà dựa vào đó ngân hàng Trung ương đã tạo ra ảnh hưởng trực tiếp. Trong 
việc chống lạm phát, các ngân hàng Trung ương luôn giảm sút việc cung tiền. 
Tăng cung tiền có thể đạt được bằng 2 cách: 
- Ngân hàng trung ương in nhiều tiền hơn (khi lãi suất thấp và điều kiện 
kinh doanh tốt), hoặc 
- Các ngân hàng thương mại có thể tăng tín dụng. 
Trong cả hai trường hợp sẵn có lượng tiền nhiều hơn cho dân cư và chi 
phí. Về mặt trung hạn và dài hạn, điều đó dẫn tới cầu về hàng hoá và dịch vụ 
tăng. Nếu cung không tăng tương ứng với cầu, thì việc dư cầu sẽ được bù đắp 
bằng việc tăng giá. Tuy nhiên, giá cả sẽ không tăng ngay nhưng nó sẽ tăng 
sau đó 2-3 năm. In tiền để trợ cấp cho chi tiêu công cộng sẽ dẫn đến lạm phát 
nghiêm trọng. 
Ví dụ: 
Năm 1966-1967, chính phủ Mỹ đã sử dụng việc tăng tiền để trả cho 
những chi phí leo thang của cuộc chiến tranh tại Việt Nam, lạm phát tăng từ 
3% (năm 1967) đến 6% (năm 1970). 
Xét trong dài hạn lãi suất thực tế (i) và sản lượng thực tế (y) đạt mức 
cân bằng, nghĩa là (i) và (y) ổn định. Mức cầu tiền thực tế không đổi nên M/P 
cũng không đổi. Suy ra khi lượng tiền danh nghĩa (M) tăng lên thì giá cả sẽ 
tăng lên với tỷ lệ tương ứng. Vậy lạm phát là một hiện tượng tiền tệ. Đây là lý 
do tại sao ngân hàng Trung ương rất chú trọng đến nguyên nhân này. 
b) Lạm phát theo thuyết Keynes (lạm phát cầu kéo) 
 5 
Tăng cung tiền là nguyên nhân duy nhất dẫn đến việc tăng cầu về hàng 
hoá và dịch vụ. Tăng tiêu dùng, chi phí công cộng và tăng dân số là những 
nhân tố phi tiền tệ, sẽ dẫn đến tăng cầu. Áp lực lạm phát sẽ tăng sau 1 đến 3 
năm, nếu cầu về hàng hoá vượt quá mức cung, song sản xuất vẫn không được 
mở rộng hoặc do sử dụng máy móc với công suất tiến tới giới hạn hoặc vì 
nhân tố sản xuất không đáp ứng được sự gia tăng của cầu. Sự mất cân đối đó 
sẽ được giá cả lấp đầy. Lạm phát do cầu tăng lên hay lạm phát do cầu kéo 
được ra đời từ đó. Chẳng hạn ở Mỹ, sử dụng công suất máy móc là một chỉ số 
có ích phản ánh lạm phát trong tương lai ở Mỹ, sử dụng công suất máy móc 
trên 83% dẫn tới lạm phát tăng. 
c) Lạm phát theo thuyết chi phí đẩy : 
Lạm phát chi phí đẩy vừa lạm phát, vừa suy giảm sản lượng tăng thêm 
thất nghiệp nên còn gọi là lạm phát "đình trệ". Hình thức của lạm phát này 
phát sinh từ phía cung, do chi phí sản xuất cao hơn đã được chuyển sang 
người tiêu dùng. Điều này chỉ có thể được trong giai đoạn tăng trưởng kinh tế 
khi người tiêu dùng sẵn sàng trả với giá cao hơn. 
Ví dụ: 
Nếu tiền lương chiếm một phần đáng kể trong chi phí sản xuất và dịch 
vụ. Nếu tiền lương tăng nhanh hơn năng suất lao động thì tổng chi phí sản 
xuất sẽ tăng lên. Nếu nhà sản xuất có thể chuyển việc tăng chi phí này cho 
người tiêu dùng thì giá bán sẽ tăng lên, công nhân và các công đoàn sẽ yêu 
cầu tiền lương cao hơn trước để phù hợp với chi phí sinh hoạt tăng lên, điều 
đó tạo thành vòng xoáy lượng giá. 
Một yếu tố chi phí khác là giá cả nguyên vật liệu đặc biệt là dầu thơ. 
Trong năm 1972-1974 hầu như giá dầu quốc tế tăng 5 lần dẫn đến lạm phát 
tăng từ 4,6% đến 13,5% bình quân trên toàn thế giới. 
Ngoài ra sự suy sụp của giá dầu (1980) làm cho lạm phát giảm xuống 
mức thấp chưa từng thấy. 
Bên cạnh những yếu tố gây nên lạm phát đó là giá nhập khẩu cao hơn 
được chuyển cho người tiêu dùng nội địa. Nhập khẩu càng trở nên đắt đỏ khi 
đồng nội tệ yếu đi hoặc mất giá so với đồng tiền khác. Ngoài ra yếu tố tâm lý 
 6 
dân chúng, sự thay đổi chính trị, an ninh quốc phòng Song nguyên nhân 
trực tiếp vẫn là số lượng tiền tệ trong lưu thông vượt quá số lượng hàng hoá 
sản xuất ra. Việc tăng đột ngột của thuế (VAT) cũng làm tăng chỉ số giá. 
Chỉ tiêu khả năng cung ứng 
- Khi sản lượng vượt tiềm năng 
đường AS có độ dốc lớn nên khi cầu 
tăng mạnh, AD - AD1, giá cả tăng P0 - 
P1 
Chi phí tăng đẩy giá lên cao 
- Cầu không đổi, giá cả tăng sản 
lượng giảm xuống Y0 - Y1 
AS1 - AS2 
d) Lạm phát dự kiến 
Trong nền kinh tế, trừ siêu lạm phát, lạm phát phi mã, lạm phát vừa 
phải có xu hướng tiếp tục giữ mức lịch sử của nó. Giá cả trong trường hợp 
này tăng đều một cách ổn định. Mọi người có thể dự kiến được trước nên còn 
gọi là lạm phát dự kiến. 
P 
P1 
P0 
y* y0 y 
AD0 
AD1 
E0 
E1 
ASS
L
ASRL P 
P1 
P0 
y* y0 y 
E1 
ASLR 
AD 
ASSR1 
ASSR2 
y1 
P2 
P1 
P0 
y* y 
AD 
AD' 
AD'' 
E' 
E 
E'' 
ASLR ASLR2 
ASLR1 
ASLR0 
 7 
Trong lạm phát dự kiến AS & AD dịch chuyển lên trên cùng, độ sản 
lượng vẫn giữ nguyên, giá cả tăng lên theo dự kiến. 
e) Các nguyên nhân khác 
Giữa lạm phát và lãi suất khi tỷ lệ lạm phát tăng lên lãi suất danh nghĩa 
tăng theo, tăng chi phí cơ hội của việc giữ tiền, càng giữ nhiều tiền càng thiệt. 
Điều này đặc biệt đúng trong các cuộc siêu lạm phát, tiền mất giá càng nhanh, 
tăng mức độ tiền gửi vào ngân hàng, vào quỹ tiết kiệm hoặc đẩy ra thị trường 
để mua về mọi loại hàng hoá có thể dự trữ gây thêm mất cân bằng cung cầu 
trên thị trường hàng hoá và tiếp tục đẩy giá lên cao. 
Giữa lạm phát và tiền tệ khi ngân sách thâm hụt lớn các chính phủ có 
thể in thêm tiền để trang trải, lượng tiền danh nghĩa tăng lên là một nguyên 
nhân gây ra lạm phát. Và một khi giá cả đã tăng lên thì sự thâm hụt mới nảy 
sinh, đòi hỏi phải in thêm một lượng tiền mới và lạm phát tiếp tục tăng vọt. 
Kiểu lạm phát xoáy ốc này thường xảy ra trong thời kỳ siêu lạm phát. Tuy 
nhiên, chính phủ có thể tài trợ thâm hụt bằng cách vay dân thông qua tín 
phiếu. Lượng tiền danh nghĩa không tăng thêm nên không có nguy cơ lạm 
phát, nhưng nếu thâm hụt tiếp tục kéo dài, số tiền phải trả cho dân (cả gốc lẫn 
lãi) sẽ lớn đến mức cần phải in tiền để trang trải thì khả năng có lạm phát 
mạnh là điều chắc chắn. 
Các nguyên nhân liên quan đến chính sách của Nhà nước, chính sách 
thuế, chính sách cơ cấu kinh tế không hợp lý. Các chủ thể kinh doanh làm 
tăng chi phí đầu vào, nguyên nhân do nước ngoài. 
1.4. Tác động của lạm phát đối với nền kinh tế 
Lạm phát có nhiều loại, cho nên cũng có nhiều mức độ ảnh hưởng khác 
nhau đối với nền kinh tế. Xét trên góc độ tương quan, trong một nền kinh tế 
 8 
mà lạm phát được coi là nỗi lo của toàn xã hội và người ta có thể nhìn thấy tác 
động của nó. 
* Đối với lĩnh vực sản xuất 
Đối với nhà sản xuất, tỷ lệ lạm phát cao làm cho giá đầu vào và đầu ra 
biến động không ngừng, gây ra sự ổn định giả tạo của quá trình sản xuất. Sự 
mất giá của đồng tiền làm vô hiệu hoá hoạt động hạch toán kinh doanh. Hiệu 
quả kinh doanh - sản xuất ở một vài doanh nghiệp có thể thay đổi, gây ra 
những xáo động về kinh tế. Nếu một doanh nghiệp nào đó có tỷ suất lợi nhuận 
thấp hơn lạm phát sẽ có nguy cơ phá sản rất lớn. 
* Đối với lĩnh vực lưu thông 
Lạm phát thúc đẩy quá trình đầu cơ tích trữ dẫn đến khan hiếm hàng 
hoá. Các nhà doanh nghiệp thấy rằng việc đầu tư vốn vào lĩnh vực lưu thông. 
Thậm chí khi lạm phát trở nên khó phán đoán thì việc đầu tư vốn vào lĩnh vực 
sản xuất sẽ gặp phải rủi ro cao. Do đó nhiều người tham gia vào lĩnh vực lưu 
thông nên lĩnh vực này trở nên hỗn loạn. Tiền ở trong tay những người vừa 
mới bán hàng xong lại nhanh chóng bị đẩy vào kênh lưu thông, tốc độ lưu 
thông tiền tệ tăng vọt và điều này làm thúc đẩy lạm phát gia tăng. 
* Đối với lĩnh vực tiền tệ, tín dụng 
Lạm phát làm cho quan hệ tín dụng, thương mại và ngân hàng bị thu 
hẹp. Số người gửi tiền vào ngân hàng giảm đi rất nhiều. Về phía hệ thống 
ngân hàng, do lượng tiền gửi vào giảm mạnh nên không đáp ứng được nhu 
cầu của người đi vay, cộng với việc sụt giá của đồng tiền quá nhanh, sự điều 
chỉnh lãi suất tiền gửi không làm an tâm những người hiện có lượng tiền mặt 
nhàn rỗi trong tay. Về phía người đi vay, họ là những người có lợi lớn nhờ sự 
mất giá đồng tiền một cách nhanh chóng. Do vậy, hoạt động của hệ thống 
ngân hàng không còn bình thường nữa. Chức năng kinh doanh tiền tệ bị hạn 
chế, các chức năng của tiền tệ không còn nguyên vẹn bởi khi có lạm phát thì 
chẳng có ai tích trữ của cải hình thức tiền mặt. 
* Đối với chính sách kinh tế tài chính của Nhà nước 
 9 
Lạm phát gây ra sự biến động lớn trong giá cả và sản lượng hàng hoá. 
Khi lạm phát xảy ra những thông tin trong xã hội bị phá huỷ do biến động của 
giá cả làm cho thị trường bị rối loạn. Người ta khó phân biệt được những 
doanh nghiệp làm ăn tốt và kém. Đồng thời lạm phát làm cho nhà nước thiếu 
vốn, do đó nhà nước không còn đủ sức cung cấp tiền cho các khoản dành cho 
phúc lợi xã hội bị cắt giảm các ngành, các lĩnh vực dự định được Chính phủ 
đầu tư và hỗ trợ vốn bị thu hẹp lại hoặc không có gì. Một khi ngân sách nhà 
nước bị thâm hụt thì các mục tiêu cải thiện và nâng cao đời sống kinh tế xã 
hội sẽ không có điều kiện thực hiện được. 
2. Thực trạng lạm phát ở Việt Nam 
2.1. Thực trạng lạm phát của Việt Nam 
Một trong những khía cạnh quan trọng nhất của công tác quản lý kinh 
tế vĩ mô là việc tìm cách kiềm chế lạm phát. Thực ra không phải 10 gần đây 
lạm phát mới xuất hiện ở Việt Nam mà từ năm 1980 về trước, lạm phát cũng 
đã tồn tại, chỉ có điều biểu hiện của nó không rõ ràng, các nghị quyết của 
Đảng Cộng sản Việt Nam, đại hội V trở về trước không sử dụng khái niệm 
lạm phát mà chỉ dùng cụm từ "Chênh lệch giữa thu và chi giữa hàng và 
tiền"; "Thị trường vật giá không ổn định" 
Lạm phát ở thời kỳ này là "lạm phát ngầm" nhưng chỉ số giá cả ở thị 
trường tự do thì tăng cao, vượt xa mức tăng giá trị tổng sản lượng cũng như 
thu nhập quốc dân. 
Sau một thời kỳ "ủ bệnh" đã bột phát thành lạm phát công khai với mức 
lạm phát phi mã cũng tăng giá ba chữ số. Đảng đã kịp thời nhận định tình 
hình này. 
"Chúng ta chưa có chính sách cơ bản về tài chính gắn liền với chính 
sách đúng đắn về giá cả, tiền tệ, tín dụng. Các khoản chi ngân sách mang 
nặng tính bao cấp và một thời gian dài vượt qua nguồn thu. Việc sử dụng vốn 
vay và viện trợ kém hiệu quả. Tất cả những cái đó gây ra thâm hụt ngân sách 
là nguyên nhân trực tiếp dẫn đến lạm phát trầm trọng". 
 10
Trong điều hành vĩ mô phát triển kinh tế, mọi quốc gia trên thế giới đều 
phải quan tâm tới chính sách tài chính, tiền tệ, chống lạm phát. Đối với nước 
ta hiện nay, kiềm chế lạm phát, ổn định giá cả đang là một vấn đề lớn đặt ra 
trong điều hành của chính phủ, của các cấp các ngành vì sự phát triển và ổn 
định. Cho tới nay, Việt Nam đã thành công về phương diện này. Lạm phát đã 
giảm từ hơn 700% một năm vào năm 1986 xuống còn chỉ 35% vào năm 1989. 
Đây là một thành công lớn, phản ánh kết quả tổng hợp của nhiều yếu tố, như 
tự do hoá nền kinh tế, áp dụng một tỷ giá hối đoái thực tế hơn, người dân 
không còn tồn trữ hàng hoá, vàng và đô la mà bắt đầu tích luỹ bằng đồng tiền 
trong nước, xuất khẩu dầu thô ngày càng tăng. Tuy nhiên, những tiến bộ vượt 
bậc trong năm 1989 đã không được củng cố ngay bằng các chính sách tiền tệ 
và tài khoản thận trọng, do đó trong các năm 1992 và 1993, giá cả đã tăng gần 
70% năm. 
2.2. Đánh giá thực trạng lạm phát ở Việt Nam 
- Giai đoạn thứ nhất: Từ năm 1890 trở về trước, lạm phát được hiểu 
giống hoàn toàn định nghĩa của Marx, cho nên chống lạm phát là tìm mọi 
cách hạn chế việc phát hành tiền vào lưu thông. 
- Thời kỳ 1938-1945: Ngân hàng Đông Dương cấu kết với chính quyền 
thực dân Pháp đã lạm phát đồng tiền Đông Dương để vơ vét của cải nhân dân 
Việt Nam đem về Pháp đóng góp cho cuộc chiến tranh chống phát xít Đức và 
sau đó để nuôi máy chục vạn quân nhận bán Đông Dương làm chiếc cầu an 
toàn đánh Đông Nam Á. Hậu quả nặng nề của lạm phát nhân dân Việt Nam 
phải chịu giá sinh hoạt từ 1939-1945 bình quân 25 lần. 
- Thời kỳ 1946-1954: Chính phủ Việt Nam dân chủ cộng hoà do Chủ 
tịch Hồ Chí Minh sáng lập và lãnh đạo đã phát hành đồng tài chính thay đồng 
Đông Dương và sau đó là đồng ngân hàng để huy động sức người, sức của 
của toàn dân tiến hành cuộc kháng chiến 9 năm đánh đuổi quân xâm lược 
Pháp, kết quả giải phóng hoàn toàn nửa đất nước. 
 11
- Thời kỳ 1955-1965: Chính phủ tay sai Mỹ kế tiếp nhau ở miền Nam 
Việt Nam liên tục lạm phát đồng tiền miền Nam để bù đắp lại cuộc chiến 
tranh chống lại phong trào giải phóng dân tộc ở miền Nam. Mặc dù được 
Chính phủ Mỹ đổ vào miền Nam một khối lượng hàng viện trợ khổng lồ, giá 
trị hàng trăm tỷ USD cũng không thể bù đắp lại chi phí. 
Nguyễn Văn Thiệu - Chính phủ đã lạm phát hàng trăm tỷ đồng tiền lưu 
thông ở miền Nam năm 1975 gấp 5 lần. Năm 1969 lên tới 600 triệu đồng, giá 
sinh hoạt tăng hàng trăm lần so với năm 1965. 
- Thời kỳ 1965-1975: ở miền Bắc Việt Nam chính phủ Việt Nam dân 
chủ cộng hoà phải tiến hành một cuộc chiến tranh chống mỹ cứu nước, chống 
chiến tranh phá hoại của Mỹ tại miền Bắc, giải phóng miền Nam thống nhất 
đất nước, đã phát hành số tiền lớn (gấp 3 lần tiền lưu thông của năm 1965 ở 
miền Bắc) để huy động lực lượng toàn dân, đánh thắng đội quân xâm lược 
Mỹ và tay sai ở cả hai miền. Nhưng nhờ có sự viện trợ to lớn và có hiệu quả 
của Liên Xô, Trung Quốc và các nước XHCN anh em đã hạn chế được lạm 
phát trong thời gian này. 
- Thời kỳ 1976 đến nay: Sau khi thống nhất đất nước, chúng ta thiếu 
kinh nghiệm trong thời bình nên duy trì quá lâu cơ chế thời chiến tập trung 
quan liêu bao cấp toàn diện, không mở rộng sản xuất hàng hoá. XHCN không 
tiến hành hạch toán kinh doanh nên đã tự gây cho mình nhiều khó khăn, sản 
xuất không đủ tiêu dùng, ngân sách không đủ chi tiêu, lạm phát tiền giấy liên 
tục và bùng nổ dữ dội tới 3 con số. Nhưng kể từ năm 1999 đến nay với sự chỉ 
đạo đúng đắn của Nhà nước thì lạm phát hiện nay chỉ còn dừng lại ở mức độ 
tốt cho sự phát triển nền kinh tế tức là chỉ ở mức 15-17% có thể nói đây cũng 
là một thành công không nhỏ của nhà nước ta. 
Trong vài năm qua nền kinh tế Việt Nam có những nét có vẻ ngày càng 
khởi sắc, chẳng hạn như tốc độ phát triển kinh tế đó từ 4.8% năm 1999 lên 
đến trên 7% năm 2003, nhưng phân tích kỹ hơn ta thấy những đám mây mù 
dường như đang kéo lại gần từ phía chân trời xa. 
 12
Sau cuộc khủng hoảng tài chính xảy ở châu Á năm 1997, Việt Nam chủ 
trương chính sách kích cầu nhằm giảm bớt ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng 
và bù lại mức giảm đầu tư trực tiếp của nước ngoài. Ta thấy mức tăng đầu tư 
nhanh chóng đưa lên từ tỷ lệ 27,6% GDP năm 1999 lên tới 35% GDP vào 
năm 2003. Đây cũng là tỷ lệ đầu tư kỷ lục trên thế giới, thế nhưng do hiệu quả 
sản xuất thấp vỡ chớnh sỏch đầu tư vẫn tập trung vào khu vực nhà nước, tốc 
độ phát triển cũng chỉ đạt được 7,3% . Đầu tư cao nhưng khoảng 60%, tức là 
khoảng 7,5 tỷ USD vẫn là đầu tư của nhà nước, trong đó nguồn vốn đầu tư 
của nhà nước là từ ngân sách (gần 40%), vay nước ngoài (30%), phần cũn lại 
là vốn doanh nghiệp (khụng biết bao nhiờu là từ vay ngõn hàng và bao nhiờu 
là vốn tự cú). Tỷ lệ đầu tư của nước ngoài giảm, nhưng có một điểm sáng là 
tỷ lệ đầu tư của tư nhân tăng từ 24% năm 1999 lên 26,7% năm 2003. Tỷ lệ 
đầu tư của nhà nước tiếp tục cao, tổng số tiền đầu tư lớn, do đó tham nhũng 
bành trướng ở mức độ gần như không cũn kiểm soỏt được là điều dễ hiểu. 
Nếu như tỷ lệ tham nhũng tiền đầu tư của nhà nước lên 20-30% như đó thảo 
luận trong kỳ họp quốc hội vừa qua, thỡ số tiền tham nhũng cú thể lờn tới 
1,5– 2,25 tỷ USD một năm. 
Trong đầu tư, chính sách của nhà nước vẫn là tập trung phát triển sản 
xuất thay thế nhập khẩu (sắt thép, xi măng, đường), kể cả đưa tới việc bảo vệ 
thị trường nội địa cho đầu tư nước ngoài (xe hơi, xe gắn máy), thay vỡ tập 
trung phỏt triển sản xuất nhằm xuất khẩu. Do chớnh sỏch trờn, thiếu hụt cỏn 
cõn xuất nhập khẩu ngày càng cao, tăng từ 0% GDP năm 1999 lên 13,5% 
GDP năm 2003. 
Mức thiếu hụt cán cân xuất nhập khẩu năm 2003 là 5.1 tỷ USD. Mức 
thiếu hụt này chưa tạo nên khủng hoảng cán cân thanh toán vỡ hiện nay thiếu 
hụt được bù đắp bằng 2,5 tỷ do lao động người Việt ở nước ngoài và Việt 
kiều gửi về, khoảng 1 tỷ đầu tư trực tiếp của nước ngoài và phần cũn lại là 
vay mượn nước ngoài. Nhưng tỡnh hỡnh phỏt triển kớch cầu hệ thống quốc 
 13
doanh thiếu hiệu quả này khụng thể tiếp tục trong tương lai, và đó là tương lai 
rất gần. 
Chính sách kích cầu, đi liền và đũi hỏi ngõn hàng tăng tín dụng đó đưa 
lạm phát đến mức báo động. Cả năm 2002, lạm phát là 3%. Chỉ trong 6 tháng 
đầu năm lạm phát đó lờn tới 7,2%. Và cho cả năm 2004, lạm phát khó lũng 
dưới 10%. Việc tăng lương nhằm tăng hiệu quả lao động sẽ không bắt kịp lạm 
phỏt. 
Các nhà làm chính sách ở trong nước thỡ thay vỡ nhận chõn vấn đề lại 
mở ra những cuộc tranh luận một cách vô nghĩa gần 6 tháng khi vào cuối năm 
2003, mức tăng tín dụng, tiền và gần-như-tiền (quasi-money) lên tới mức báo 
động từ 30 đến 40% (coi số liệu mới cung cấp cho IMF trong bảng đính kèm - 
số liệu này rất khác số liệu đó cung cấp trước đây, cho phép ta tự hỏi về tính 
chân thật của số liệu tiền tệ được coi là bí mật quốc gia này). Cuộc tranh luận 
bắt đầu bằng việc đặt vấn đề là quyền số chi tiêu lương thực của hộ gia đỡnh 
do Tổng cục Thống kờ dựng là khụng đúng do đó đưa tới chỉ số giá tăng cao 
(tôi đó so sỏnh với nhiều nước và thấy quyền số này không có vấn đề). Cuộc 
tranh luận chuyển sang việc tại sao lại gọi tăng giá là lạm phát? Tăng giá 
không phải là lạm phát, có người đó cố lý luận như vậy. 
Rồi có người lại đặt vấn đề là tăng giá hiện nay khác tăng giá năm 
1980-1990 về bản chất vỡ tăng giá ở Việt Nam là do tăng giá xăng dầu từ 
nước ngoài. Lý luận này cú vẻ cú lý, nhưng người lý luận không thấy rằng 
mức dùng dầu xăng cho một đơn vị sản lượng và mức tiêu thụ xăng dầu ở 
Việt Nam rất thấp so với Mỹ, thế tại sao Mỹ không có lạm phát ở mức 10% ? 
Từ “lạm phỏt” là dịch của chữ inflation. Về chữ nghĩa thỡ “lạm phỏt” là 
lạm phỏt in tiền. Do đó có thể lý luận một cách vô nghĩa rằng tăng giá không 
nhất thiết là do lạm phát tiền. Nhưng lý thuyết tiền tệ đó chỉ ra rằng, tăng giá 
nói cho cùng là vấn đề tăng tiền tệ. Nếu giá thành (như xăng dầu, sắt thép 
nhập từ nước ngoài chẳng hạn) có tăng thỡ cỏc giá khác phải giảm nếu như 
lượng tiền tệ và tín dụng không tăng. Việc giá đẩy giá (cost push) chỉ xảy ra 
 14
nếu ngân hàng trung ương cho phép nó xảy ra. Nhỡn vào tốc độ tăng tín dụng 
ở Việt Nam, ta thấy rừ là tốc độ tăng đó ở mức rất cao và đang có chiều 
hướng đi lên. Không thể in tiền, tung tín dụng kích cầu mói để đạt chỉ tiêu 
phát triển cao. Cần nhanh chóng nhận định chính xác vấn đề để có chính sách 
tiền tệ và tín dụng phù hợp. Hỡnh như chính phủ đó thấy vấn đề khi quyết 
định tăng tỷ lệ dự trữ bắt buộc, nhằm giảm mức tăng tín dụng. Nhưng đồng 
thời vẫn có ý kiến là từ lónh đạo ngân hàng là tiếp tục giữ chỉ tiêu mức tăng 
tín dụng là 25% năm 2004. Cũn cơ quan kế hoạch thỡ vẫn nhắm đạt chỉ tiêu 
tốc độ tăng trưởng là 7,5-8%. Nhắm đạt chỉ tiêu phát triển cao, và để đạt được 
mục đích lại tập trung vào quốc doanh, thỡ làm sao trỏnh được việc bơm tín 
dụng. “chỉ tiêu kế hoạch”? Cần xét lại hướng phát triển trên các hướng sau: 
- Đổi hướng phát triển thay thế nhập khẩu để hướng vào phát triển xuất 
khẩu, nếu không thiếu hụt cán cân ngoại thương sẽ ngày càng trầm trọng 
thêm. Cuộc khủng hoảng tài chính ở châu Á đó làm việc này thay chớnh phủ 
trong thời gian 1997-1999, chớnh vỡ thế mà thiếu hụt cỏn cõn ngoại thương 
thanh toán trầm trọng vào thời gian đó đó ngừng vào năm 1999. Chỉ có thể 
phát triển bền vững ở tốc độ cao nếu như phát triển không tạo ra mức thiếu 
hụt cán cân thanh toán trầm trọng như hiện nay. 
- Chấm dứt chính sách đổ tín dụng vào khu vực quốc doanh nhằm đạt 
chỉ tiêu kế hoạch phát triển cao nếu không lạm phát sẽ tới mức không kiểm 
soát được. Hiện nay gần 80% tín dụng ngân hàng quốc doanh vẫn đổ vào 
doanh nghiệp quốc doanh. Phát triển cao là điều ai cũng mong muốn nhưng 
phải trên cơ sở hiệu quả sản xuất, chứ không phải trên cơ sở duy ý 

File đính kèm:

  • pdfHoan thu.pdf
Đề thi liên quan