Tìm hiểu về ca dao Việt Nam trường THPT Vũng Tàu

doc6 trang | Chia sẻ: dethi | Lượt xem: 1125 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tìm hiểu về ca dao Việt Nam trường THPT Vũng Tàu, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
TRƯỜNG THPT VŨNG TÀU

Họ & Tên: Ngô Thành Đại – Lớp 10A3

TÌM HIỂU VỀ CA DAO VIỆT NAM
I. Khái niệm về ca dao
Ca dao là thể loại trữ tình dân gian, thường kết hợp với âm nhạc khi diễn xướng, được sáng tác nhằm diễn tả thế giới nội tâm của con người.
Ca dao là nguồn sữa tinh thần nuơi dưỡng trẻ thơ qua lời hát ru, là hình thức trị chuyện tâm tình của các chàng trai cơ gái, là tiếng nĩi biết ơn, tự hào về cơng đức của tổ tiên và anh linh của những người đã khuất, là phương tiện bộc lộ nỗi tức giận hay lịng hân hoan của người lao động, trong gia đình, xã hội.
VD: 	 
Thân em như giếng giữa đàng
Phất phơ giữa chợ biết vào tay ai.
Ca dao cĩ nội dung phong phú và đa dạng. 
II. Phân loại ca dao
Dựa vào cung bậc tình cảm, ca dao được chia làm 3 loại: 
Ca dao trữ tình
Ca dao hài hước
Ca dao nghi lễ
III. Nội dung của mỗi loại ca dao
1. Ca dao trữ tình
Ca dao trữ tình được chia làm 3 loại chính: Ca dao than thân (người phụ nữ trong XHPK), ca dao lao động & ca dao yêu thương – tình nghĩa.
a) Ca dao yêu thương – tình nghĩa 
Nội dung: Là tiếng hát yêu thương, tình nghĩa, ca dao bộc lộ tình sâu nghĩa nặng đối với xĩm làng, quê hương, đất nước, đối với cha mẹ, vợ chồng, con cái, bạn bè và dạt dào nhất là tình cảm lứa đơi. 
VD: 
Đối với cha mẹ: 
Mẹ già như chuối ba hương,
hay
Như xơi nếp một, như đường mía lau.
Con người cĩ tổ cĩ tơng
Như cây cĩ cội như sơng cĩ nguồn.
Đối với tình yêu chung thủy, trong sáng, thiết tha:
Yêu nhau cởi áo cho nhau,
Về nhà dối mẹ qua cầu giĩ bay.
hay
Thuyền về cĩ nhớ bến chăng,
Bến thì một dạ khăng khăng đợi thuyền.
Anh đi đường ấy xa xa,
Để em ơm bĩng trăng tà năm canh.
Đối với xĩm làng, quê hương, đất nước:
Đường vơ xứ Nghệ quanh quanh,
Non xanh nước biếc như tranh họa đồ.
--------------------------
b) Ca dao than thân 
Người phụ nữ trong XHPK xưa trở thành đề tài, cảm hứng sáng tác bất tận của CD:
Nội dung ca dao than thân: là tiếng than thân trách phận, cuộc đời, cảnh ngộ khổ cực, đắng cay. Đồng thời, ca dao than thân cịn đề cao giá trị & phẩm chất của con người.=> Phản kháng xã hội, phản kháng những điều ngang trái ẩn chứa rất sâu trong đĩ.
Hồn cảnh ra đời: Ca dao than thân ra đời từ cuộc sống làm ăn vất vả, cực nhọc và bị áp bức nặng nề của người dân trong xã hội cũ. Ca dao than cho cảnh đè nén, áp bức: 
 Thương thay thân phận con rùa,
Lên đình đội hạc, xuống chùa đội bia.
Đặc biệt là tiếng than của người phụ nữ chịu nhiều bất cơng do chế độ nam quyền và lễ giáo phong kiến gây ra:
Thân em như tấm lụa đào,
Phất phơ giữa chợ biết vào tay ai.
Thân em như củ ấu gai,
Ruột trong thì trắng, vỏ ngồi thì đen
Ai ơi nếm thử mà xem
Nếm xong mới biết rằng em ngọt bùi.
Cảnh tảo hơn, đa thê, gả bán, ....
Vợ lẽ như giẻ chùi chân,
Chùi xong lại vứt ra sân
hay
Gọi ơng hàng xĩm cĩ chùi chân thì chùi.
Bồng bồng cõng chồng đi chơi,
Đi qua chỗ lội đánh rơi mất chồng.
Chị em ơi, cho tơi mượn gàu sịng
Để tơi tát nước vớt chồng tơi lên.
Than mà phản kháng, người dân lao động khi khổ thì cất tiếng than nhưng khơng bao giờ để mất niềm tin: 
Chớ than phận khĩ ai ơi
Cịn da lơng mọc, cịn chồi nảy cây.
Bao giờ dân nổi can qua
Con vua thất thế lại ra quét chùa.
c) Ca dao lao động
Nội dung ca dao lao động: phản ánh quá trình lao động của nhân dân.
VD: 
Trời mưa trời giĩ đùng đùng,
Bố con ơng Nùng đi gánh phân trâu
Đem về trồng bí trồng bầu
Trồng ngơ, trồng lúa, trồng rau, trồng cà.
*
Anh đi anh nhớ quê nhà,
Nhớ canh rau muống nhớ cà dầm tương
Nhớ ai dãi nắng dầm sương
Nhớ ai tát nước bên đường hơm nao.
*
Trâu ơi, ta bảo trâu này….
2. Ca dao hài hước
Nội dung ca dao hài hước: thể hiện tập trung các nét đặc sắc của nghệ thuật trào lộng dân gian Việt Nam nhằm tạo ra tiếng cười châm biếm, phê phán xã hội – thể hiện tâm hồn lạc quan, yêu đời và triết lí nhân sinh lành mạnh trong cuộc sống lao động vất vả của người dân khi xưa. 
Ca dao hài hước được chia làm 2 loại chính: Ca dao châm biếm, trào phúng & Ca dao tự trào, hài hước.
a) Ca dao châm biếm, trào phúng 
VD: 
Số cơ khơng giàu thì nghèo,
Ngày ba mươi Tết thịt treo trong nhà.
Số cơ cĩ mẹ cĩ cha,
Mẹ cơ đàn bà, cha cơ đàn ơng.
Số cơ cĩ vợ cĩ chồng,
Sinh con đầu lịng khơng gái thì trai.
*
Chớ thấy hùm ngủ vuốt râu, Đến khi hùm dậy, đầu lâu chẳng cịn.
*
Thế gian chuộng của, chuộng cơng, Nào ai cĩ chuộng người khơng bao giờ.
b) Ca dao tự trào, hài hước
VD: 
Chồng người đánh Bắc dẹp Đơng,
Chồng em ngồi bếp giương cung bắn gà.
*
Chồng người cưỡi ngựa bắn cung
Chồng em cưỡi chĩ, lấy thun bắn ruồi.
-----------------------------
3. Ca dao nghi lễ
Nội dung: thể hiện niềm tin tơn giáo.
VD: 
Dù ai đi ngược về xuơi
Nhớ ngày giỗ Tổ mùng mười tháng ba.
*
IV. Nghệ thuật của ca dao
Ca dao phong phú trong cách cấu tứ và xây dựng hình tượng. 
Thể loại: được dùng nhiều trong ca dao là thể lục bát, song thất lục bát và các thể vãn (vãn 4, 5). Mỗi bài ca dao thường cĩ hai dịng thơ lục bát nên kết cấu đơn giản, ngắn gọn. 
Ngơn ngữ: trong sáng, dễ hiểu, mộc mạc, gắn bĩ. 
Sức hấp dẫn ở ca dao là ở âm điệu, vừa phong phú, vừa thanh thốt và ở lời ca dao giàu hình ảnh. 
Biện pháp nghệ thuật ẩn dụ, so sánh, nĩi quá,... tạo ra những hình ảnh gợi cảm, mở rộng trường liên tưởng sâu xa:
Đơi ta thương mãi nhớ lâu
Như sơng nhớ nước, như dâu nhớ tằm.
*
Đơi ta như lửa mới nhen
Như trăng mới mọc, như đèn mới khêu.
*
Đường xa thì mặc đường xa
Nhờ mình làm mối cho ta một người
Một người mười tám đơi mươi
Một người vừa đẹp, vừa tươi như mình
Nghệ thuật so sánh ví von đã tạo nên những hình ảnh truyền thống độc đáo trong ca dao: cây đa - bến nước - con đị; trúc - mai, con cị, chiếc cầu, ...
VD: 
Cái cị đi đĩn cơn mưa
Tối tăm mù mịt ai đưa cị về.
Cây đa cũ, bến đị xưa
Bộ hành cĩ nghĩa, nắng mưa cũng chờ.
Ước gì sơng rộng một gang
Bắc cầu dải yếm cho chàng sang chơi.
Khơng gian và thời gian trong ca dao thường xác định, cụ thể.
VD: 
Chiều chiều ra đứng ngõ sau
Trơng về quê mẹ ruột đau chín chiều.
Cĩ thể nĩi ca dao dùng lời ăn tiếng nĩi của nhân dân để chuyển tải tâm tư, tình cảm của nhân dân.
V. Bài viết đánh giá, bình giảng về Ca dao.
Bình giảng bài ca dao “Con cị mà đi ăn đêm…”:
“Con cị mà đi ăn đêm,
Đậu phải cành mềm lộn cổ xuống ao.
Ơng ơi ơng vớt tơi nao,
Tơi cĩ lịng nào ơng hãy xáo măng.
Cĩ xáo thì xáo nước trong
Đừng xáo nước đục đau lịng cị con”.
BÀI LÀM
          Cánh cị trong ca dao sao đẹp thế! Màu xanh của lúa điểm trắng cánh cị sớm sớm chiều chiều. “Con cị bay lả bay la – Bay từ cửa phủ bay ra cánh dồng…” Con cị là người bạn thân thiết, hiền lành của nhà nơng. Con cị trong ca dao là hiện thân của người dân cày quê ta: chất páhc, siêng năng, cần mẫn, trải qua nhiều vất vả, gieo neo. Cánh cị từ hàng ngàn năm xa xưa đã nhập vào tâm hồn tuổi thơ qua lời ru êm ái, ngọt ngào của mẹ:
“Con cị mà đi ăn đêm,
Đậu phải cành mềm lộn cổ xuống ao.
Ơng ơi ơng vớt tơi nao,
Tơi cĩ lịng nào ơng hãy xáo măng.
Cĩ xáo thì xáo nước trong
Đừng xáo nước đục đau lịng cị con”.
          Bài ca dao mượn tiếng kêu thương của con cị lâm nạn đẻ nĩi lên thân phận vất vả, bất hạnh của nhà nơng, ca ngợi một tâm thế đẹp, thà chết trong cịn hơn sống đục.
          Câu đầu nĩi về một cuộc đời, về một thân phận. Câu da đọc lên nghe nhiều thương cảm, ai ốn”
“Con cị mà đi ăn đêm”
          Vạc mới đi ăn đêm, chứ cị thì kiếm ăn ban ngày. Cị phải đia ăn đêm, đĩ là một nghịch lý trong cuộc đời. Cuộc sống của cị nhiều lận đận, vất vả. Chữ “mà” trong câu ca làm nổi bật cấu trúc tương phản, gợi lên nhiều xĩt xa cảm thương cho một đời cị! Tục ngữ, ca dao của Vũ Ngọc Phan ghi là: “Con cị mày đi ăn đêm”.
          Cần cù, chịu khĩ kiếm ăn tưởng sẽ được ấm no, hạnh phúc? Bầy cị con chắc sẽ được mẹ cị tha mồi về tổ cho nhiều hơn? Cuộc đời vất vả gian truân thế, cị cịn phải trải fqua nhiều bất hạnh đắng cay, nhiều hoạn nạn đau đớn khơng thể nào kể xiết! Cị đã “đậu phải cành mềm lộn cổ xuống ao”. Cị cĩ cánh, cị bay giỏi, cị cĩ rơi xuống ao thì vẫn bay lên được. Hai từ “lộn cổ” nĩi lên tai họa cị gặp phải. Cị khơng thể nào thốt hiểm được khi bị “lộn cổ xuống ao”. Tiếng cị cất lên trong đêm khuya sao mà thảm thương thế. Câu cảm thán diễn tả tiếng kêu cứu, lời phân trần của cị:
“Ơng ơi ơng vớt tơi nao.
Tơi cĩ lịng nào ơng hãy xáo măng”.
          Ba từ “ơng”, hai từ “tơi” được điệp lại như nốt nhấn bi thảm của bài ca. Cị mong “ơng” cứu vớt, đối thương. “Tơi cĩ lịng nào…” là lời phân trần: cị đi ăn đêm… nhưng cị khơng phải là kẻ bất lương, mà cị hiền lành, lương thiện.
          Con cị trong bài ca dao là hình ảnh ẩn dụ, là biểu tượng về người nơng dân “hai sương một nắng”. Đĩ là những con người hiền lành, chất phác cần cù, lam lũ, chịu thương chịu khĩ trong cuộc đời. Bất hạnh của con cị “lộn cổ xuống ao” cũng là những bất hạnh, hoạn nạn của nhà nơng đứng trước mọi thế lực thống trị và áp bưc trong xã hội. Sưu cao thuế nặng. Ách thống trị nặng nề của bọn vua quan. Nạn áp bức, bịn rút của bọn địa chủ, cường hào. “Phần thuế quan Tây, phần trả nợ” - Nửa cơng đưa ở, nửa thuê bị” (Nguyễn Khuyến). Trải qua hàng ngàn năm, người nơng dân Việt Nam đã đổ mồ hơi vất vả làm ra củ khoai, hạt gạo nuơi sống nhân dân, nhưng cuộc đời của họ cĩ khác gì thân phận con cị trong bài ca dao nay. Tiếng kêu thương của con cị đã vọng vào cuộc đời theo thời gian năm tháng. Bài ca dao đã gieo vào lịng chúng ta sự xĩt thương, đồng cảm với bao nạn nhân trong xã hội, nhất là đối với số phận người nơng dân Việt Nam đêm trước cách mạng Tháng Tám.
          Bài ca dao càng trở nên sâu sắc và thấm thía khi chúng ta đọc đến hai câu cuối:
“Cĩ xáo thì xáo nước trong,
Đừng xáo nước đục đau lịng cị con”.
          Gặp tai họa chưa chắc đã thốt hiểm: tính mạng nghìn cân treo sợi tĩc. Trước cái chết cầm chắc trong tay, thế mà cị chỉ nghĩ đến bầy con thơ, thương bầy con nhỏ tội nghiệp. Cị giàu tình thương yêu, giàu đức hy sinh và vị tha. Cị cam chịu số phận. Những phẩm chất ấy của cị cũng là những đức tính của nhà nơng quê ta.
          Cái đặc sắc của bài ca dao là ngồi tình cảm nhân đạo cịn hàm chứa tư tưởng rất đẹp. Đã cĩ câu tục ngữ nêu lên cách ứng xử “đĩi cho sạch, rách cho thơm”. Đã cĩ bài ca dao ca ngợi một tâm thế thanh cao “gần bùn mà chẳng hơi tanh mùi bun”. Đã cĩ một thế đứng cao đẹp như dáng trúc trước hoạn nạn: “Trúc dẫu cháy, đốt ngay vẫn thẳng”. Ở đây cũng vậy, qua thân phận con cị, nhà thơ dân gian đã nêu lên một triết lý nhân sinh tuyệt đẹp, ca ngợi tâm hồn trong sáng, hồn hậu: thà chết trong cịn hơn sống đục! Hai chữ “trong” và “đục” tương phản nhau, lời nguyền của kẻ tử nạn trở nên thống thiết, khẳng định một lẽ sống đẹp. Chữ “xáo” được điệp lại 4 lần, ý thơ được nhấn mạnh diễn tả sự đinh của người bất hạnh trong cảnh ngộ đáng thương.
          Cuộc đời của anh Pha, chị Dậu, lão Hạc… cĩ khác gì cuộc đời và thân phận con cị “lộn cổ xuống ao” trong bài ca dao này? Lão Hạc “thà chết trong cịn hơn sống đục”; trước lúc kết thúc cuộc đời bằng cái bả chĩ, lão đã gửi lại ơng giáo mảnh vườn cho đứa con tra tha hương chưa về, gời lại tiền cho ơng giáo để lo việc tang ma… Người nhà quê tuy nghèo khổ nhưng tâm thế của họ đẹp lắm, đáng tự hào lắm.
          Bài ca dao này cũng như phần lớn các bài ca dao dân ca đều được viết bằng thẻ thơ lục bát. Bốn câu đầu, cách gieo vần rất sáng tạo độc đáo. Chữ cuối câu lục khơng vần với chữ thứ 6 câu 8 như thường lệ mà lại vần với chữ thứ 4 câu bát. Người ta gọi đĩ là lục bát biến thể”
“Con cị mà đi ăn đêm,
Đậu phải cành mềm lộn cổ xuống ao.
Ơng ơi ơng vớt tơi nao.
Tơi cĩ lịng nào ơng hãy xáo măng…”
          Âm điệu bài ca như tiếng nấc, đọc lên nghe thật là ai ốn, cay đắng nghẹn ngào. Các biện pháp nghệ thuật như ẩn dụ, điệp từ và cảm thán đã gĩp phần làm tăng tính thẩm mĩ và biểu cảm của bài thơ dân gian này.
          Thương con cị lâm nạ “lộn cổ xuống ao…”, thương “con cị đi đĩn cơn mưa…”, thương “con cị chết rũ trên cây…”, chúng ta nghìn lần thương yêu, kính phục người dân cày Việt Nam. Hơn 80% dân số nước ta làm nghề nơng. Nghề nơng là nghề căn bản của dân tộc. Trải qua 4000 năm dựng nước và giữ nước, người dân cày Việt Nam đã từng dùng gộc tre đánh giặc, siêng năng cày bừa cấy hái để làm nên những bát cơm đầy dẻo thơm:
“Đất nước lớn lên khi dân mình biết trồng tre mà đánh giặc,
(…) Cái kèo cái cột thành tên,
Hạt gạo phải một nắng hai sương
Xay giã giần sàng,
Đât nước cĩ từ ngày đĩ…”
(Nguyễn Khoa Điềm)
          Trong hai cuộc kháng chiến thần thánh vừa qua, anh bộ đội cụ Hồ là người nơng dân mặc áo lính. Cần cù, dũng cảm, yêu nước, chất phác… là phẩm chất cao quý của nhà nơng quê ta… Học bài ca dao “Con cị mà đi ăn đêm” ta thêm thương yêu kính phục họ. Bài học thà chết trong cịn hơn sống đục mà nhà thơ dân gian gửi cho đến nay vẫn cịn cĩ nhiều ý nghĩa đối với thế hệ trẻ chúng ta.
=/Sưu Tầm/=

File đính kèm:

  • docTim Hieu Ca Dao Viet Nam.doc