Tổng hợp các bài văn hay

doc27 trang | Chia sẻ: frankloveabc | Lượt xem: 3800 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Tổng hợp các bài văn hay, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
TỔng hợp các bài văn hay

Viếng lăng Bác ( Viễn Phương )
 Trong chương trình ngữ văn trung học cơ sở , em được đọc và học một số bài thơ rất hay viết về Bác Hồ kính yêu của dân tộc . Nhưng có lẽ bài thơ gây cho em ấn tượng nhất , xúc động nhất là bài thơ Viếng lăng Bác của nhà thơ Viễn Phương . Bài thơ viết về Bác , sau khi Bác đã đi xa . Bằng tình cảm thành kính và bao nhiêu năm mong mỏi nay bỗng bật dậy trào dâng và được thể hiện trong những vần thơ vô cùng sâu sắc . ( dẫn cả bài thơ ) 
 Bài thơ Viếng lăng Bác của Viễn Phương thể hiện niềm xúc động , thiêng liêng thành kính , lòng biết ơn và tự hào pha lẫn nỗi xót đau khi tác giả từ miền Nam ra viếng lăng Bác . Bài thơ gọn chỉ có 4 khổ , 16 dòng nhưng đã kết hợp giữa miêu tả và biểu hiện cảm xúc tâm trạng .
 Mở đầu bài thơ tác giả viết : 
“ Con ở miền nam ra thăm lăng Bác
Đã thấy trong sương hàng tre bát ngát
Ôi hàng tre xanh xanh Việt Nam
Bão táp mưa sa đứng thẳng hàng . ”
 Con ở miền Nam ra thăm lăng Bác ,câu thơ mở đầu ngắn gọn như một lời thông báo nhưng lại gợi ra rất nhiều điều : có thể nghĩ đó là tâm trạng xúc động của một người từ chiến trường miền Nam sau bao năm mong mỏi bây giờ mới được ra viếng Bác . Câu thơ vừa ấm áp tình người với cách xưng hô thân mật Con – Bác . bởi tất cả chúng ta đều là những người con của Bác . “ Người là Cha là Bác là Anh - Quả tim lớn lọc trăm dòng máu nhỏ .” Nhà thơ đã tạo nên một không khí ấm áp, gần gũi , thân thiết .
 Hòa vào dòng người xếp hàng vào lăng viếng Bác , Viễn Phương có dịp quan sát khung cảnh xung quanh lăng Người . Hình ảnh đầu tiên mà tác giả thấy được và cũng là ấn tượng đậm nét về cảnh quan quanh lăng Bác là hàng tre . Cây tre từ bao đời là hình ảnh thân thuộc của đất nước Việt Nam . Nhắc đến tre ta lại nghỉ về đất nước , về dân tộc Việt Nam với bao đức tính cao quí . tre anh hùng trong chiến đấu , tre yêu thương giúp đỡ dân tộc , tre hi sinh cho thế hệ mai sau . và tre cũng rất kiên cường , bât khuất .
Nòi tre đâu chịu mọc cong
Chưa lên đã nhọn như chông lạ thừơng”
 Có thể nói cây tre Việt Nam là biểu tượng sức sống biền bỉ , kiên cường của dân tộc Việt Nam bão táp mưa sa đứng thẳng hàng . Mặc cho bão táp mưa sa tre vẫn thanh thản bình yên đúng đó thẳng hàng như những vệ binh đứng gác bảo vệ lăng Người .
 Theo đoàn người vào lăng viếng Bác nhà thơ đã cảm nhận được .
“ Ngày ngày mặt trời đi qua trên lăng
Thấy một mặt trời trong lăng rất đỏ .”
 Mặt trời ngày ngày đi qua trên lăng là hình ảnh thực : mặt trời của đất , nguồn ánh sáng lớn nhất , rực rỡ nhất và vĩnh viễn trên thế gian . Mặt trời trong lăng rất đỏ là một hình ảnh ẩn dụ , nhà thơ muốn nói Bác Hồ chúng ta là mặt trời . Mặt trời đỏ chiếu sáng con đường chúng ta đang đi bằng sự nghiệp vĩ đại của người . Có phải chăng đây là niềm tôn kính của nhà thơ , cũng là của nhân dân đối với Bác , vừa là lời ca ngợi sự vĩ đại của Bác chúng ta . 
Ngày ngày dòng người đi trong thương nhớ
Kết tràng hoa dâng bảy mươi chín mùa xuân .
 Hình ảnh dòng người vào lăng viếng Bác được tác giả ví như những tràng hoa dâng lên Bác . Cách so sánh ngầm này vừa thích hợp vừa mới lạ , diễn tả được tình cảm thương nhớ , tôn kính của nhân dân đối với Bác .
Bác nằm trong giấc ngủ bình yên
Giữa một vần trăng sáng diệu hiền .
 Hai câu thơ bộc lộ cảm xúc và suy nghĩ của nhà thơ khi vào trong lăng thăm Bác . Bác nằm trong lăng giấc ngủ bình yên giữa một vùng trăng sáng diệu hiền nhè nhẹ . Anh sáng ấy từ nơi Bác tỏa ra tưởng chừng như không khí thanh tĩnh ngưng kết cả thời gian và không gian ở bên trong lăng Người . Có thể nói bằng hình ảnh “ Vầng trăng sáng diệu hiền ” nhà thơ muốn tạo ra môt hình ảnh vũ trụ để ví với Bác . Người có lúc như mặt trời ấm áp , có lúc diu hiền như ánh trăng rằm và cũng có lúc Bác là trời xanh yên ả . Hình ảnh ẩn dụ như để nói cái trường tồn vĩnh hằng không bao giờ mất của Bác . 
Vẫn biết trời xanh là mãi mãi
Mà sao nghe nhói ở trong tim .
 Những cái mênh mông bao la của vũ trụ được tác giả ví như cái bao la rộng lớn trong tình thương của Bác . Đó cũng là biểu hiện sự vĩ đại cao siêu của con người Bác . trong mỗi chúng ta ai cũng biết rằng Bác Hồ sống mãi 


với non sông đất nước . Sống mãi trong tâm trí nhân dân như bầu trời xanh vĩnh viễn trên cao . Nhưng Viễn Phương vẫn không khỏi thấy nhói đau trong lòng khi đứng trước thi thể của Người “ Mà sao nghe nhói ở trong tim .” Nỗi đau như hàng ngàn mũi kim châm vào trái tim thổn thức của nhà thơ. Đây chính là sự rung động mãnh liệt chân thành của Viễn Phương .
 Mặ dù hiện tại nhà thơ đang đứng bên lăng Người , trong lăng Người nhưng khi nghĩ đến những ngày phải rời miền Bắc , ngày xa Bác Viễn Phương thấy bịn rịn không muốn rời . Tình cảm trong những ngày được sống bên Bác luôn luôn sâu lắng từng giây từng phút . Tác giả không thể nào ngăn được nữa những dòng nước mắt trào dâng và tha thiết . 
Mai về miền Nam thương trào nước mắt
 Câu thơ thật bình dị nhưng chứa chan tình thươngấp ủ sâu lắng tận đáy lòng làm cho mỗi chúng ta khi đọc lên cảm thấy vô cùng xúc động . Đây là một cách nói không hoa mỹ mà là một cách nói rất chân thành của người dân Nam Bộ nhưng lại lắng đọng trong lòng người không gì có thể nói và tả được . Cũng xuất phát từ tình cảm đó cho nên nhà thơ có ước nguyện thành kính và đây có thể là ước vọng chung của tất cả mọi người đã một lần hoặc chưa một lần gặp Bác .
Muốn làm con chim hót quanh lăng Bác
Muốn làm đóa hoa tỏa hương đâu đây
Muốn làm cây tre trung hiếu chốn này .
 Điệp ngữ “ Muốn làm ” được nhắc đi nhắc lại nhiều lần trong đoạn thơ thể hiện ước nguyện muốn tự nguyện tự giác của Viễn Phương . nhà thơ muốn làm con chim hót dâng tiếng hót vui . Muốn làm bông hoa dâng hương thơm và sắc đẹp . muốn làm cây tre trung hiếu canh giữ cho lăng Bác ngày đêm . Hình ảnh cây tre lại xuất hiệnở đoạn cuối bài thơ làm nhiệm vụ khép lại bài thơ một cách khéo léo , tạo cho người đọc một ấn tượng mạnh mẽ khó phai mờ 
 Ước vọng của nhà thơ thể hiện tình cảm thành kính thiêng liêng của người con Nam Bộ đối với Bác Hồ . Ước muốn đó cũng là tình cảm của mỗi người dân Việt Nam đối với Bác Hồ . Những người đã về lăng Bác “ Kết tràng hoa dâng 79 mùa xuân ” và những ai chưa đến lăng nhưng lòng vẫn thành tâm hướng về Bác .
 Viếng lăng Bác , bài thơ gây một xúc cảm đặc biệt , thành công trước hết phải nói là nhờ cảm xúc hết sức chân thành và sâu sắc của Viễn Phương . Xúc cảm đó được “ cộng hưởng ” bởi tình cảm thiêng liêng mà Bác dành cho nhân đân miền Nam và tình cảm thành kính , ngưỡng mộ mà toàn dân tộc Việt Nam dành cho Bác . Cảm ơn nhà thơ đã truyền cảm xúc của mình đến với người đọc . Chúng ta con cháu của Bác xin nguyện như nhà thơ Viễn Phương làm tiếng chim hót , làm bông hoa đẹp , làm cây tre trung hiếu và sẵn sàng làm muôn ngàn công việc tốt để kính dâng Người .
Phân tích : sang thu ( Hữu Thỉnh )
 Mùa thu thường là đề tài của các thi nhân Việt Nam. Bởi mùa thu là thời điểm giao cảm của tâm hồn con người với thiên nhiên tạo thành một truyền thống thi ca của mùa thu . Cũng viết về mùa thu nhưng mỗi nhà thơ viết về một thời điểm khác nhau . Nguyễn Khuyến viết “ Thu điếu ” vào thời điểm trong thu. Xuân Diệu viết “ Đây mùa thu tới ” ở thời điểm cuối thu . Còn nhà thơ Hữu Thỉnh viết “ Sang thu” ở thời điểm chớm thu . bài thơ là sự cảm nhận của nhà thơ về sự biến đổi của đất trời từ cuối hạ sang đầu thu . 
Bỗng nhận ra hương ổi
Phả vào trong gió se
Sương chùng chình qua ngõ
Hình như thu đã về
 
Sông được lúc dềnh dàng
Chim bắt đầu vội vã
Có đám mây mùa hạ
Vắt nửa mình sang thu

Vẫn còn bao nhiêu nắng
Đã vơi dần cơn mưa
Sấm cũng bớt bất ngờ
Trên hàng cây đứng tuổi .



 Thật vậy , bài thơ sang thu tuy ngắn nhưng có nhiều hình ảnh đặc sắc , gợi cảm về thời điểm giao mùa từ hạ sang thu ở nông thôn vùng đồng bằng Bắc Bộ . Mở đầu bài thơ tác giả viết : 
“ Bỗng nhận ra hương ổi
Phả vào trong gió se
Sương chùng chình qua ngõ
Hình như thu đã về .”
 Ta thấy tác giả cảm nhận không gian làng quê sang thu thật bất ngờ . “ Bỗng nhận ra hương ổi ” , từ bỗng thể hiện sự đột ngột , bất ngờ nhưng cái bất ngờ mới nên thơ làm sao ! Bất ngờ nhận ra những dấu hiệu thiên nhiên khi mùa thu về . Đó là hương ổi thoang thoảng thơm trong gió thu se lạnh . Từ pha có thể thay bằng các từ thổi , đưa , bay ,lan , tan … Nhưng cả bấy nhiêu từ đều không có cái nghĩa đột ngột , bất ngờ . Mùa quả chín , mùa ổi đã trỡ thành nhan đề cho cả một bộ phim truyện nổi tiếng , giờ đây đã trở thành mùi hươngcủa mùa thu miền Bắc Việt Nam .
 Ta thấy nhà thơ Hữu Thỉnh sử dụng từ ngữ rất đắt ở hai câu thơ “ Sương chùng chình qua ngõ - hình n hư thu đã về ” . chùng chình là từ láy gợi hình , có thể thay bằng từ dềnh dàng , đủng đỉnh , chầm chậm , lững thững . .. Dùng chùng chình có cái hay riêng . tác giảđã nhân hóa làn sương . nó đi qua ngõ nhà có vẻ cố ý chậm hơn mọi ngày . Ta thấy có cái gì đó thật duyên dáng , thật yểu điệu của một làn sương , một hình bóng thiếu nữ , một người bạn gái nào đó …Và tất cả chưa thật rõ ràng , hay vì quá đột ngột mà tác giả chưa nhận ra . Từ hình như thể hiện cái ngỡ ngàng , ngạc nhiên đó . Từ cảm nhận này ta có thể hiểu được tâm hồn nhạy cảm , yêu thiên nhiên , yêu thời tiết thu và cuộc sống nơi làng quê, cao hơn nữa đó là tình yêu dân tộc .
 Cùng với không gian làng quê sang thu , ta còn thấy tác giả cảm nhận không gian đất trời vào thu .
Sông được lúc dềnh dàng
Chim bắt đầu vội vã
Có đám mây mùa hạ
Vắt nửa mình sang thu
 Đất trời sang thu được cảm nhận từ những hình ảnh quen thuộc , gần gũi : sông , cánh chim , đám mây. Sông có lúc dềnh dàng gợi lên một cảnh tượng cụ thể , dòng sông nước bắt đầu cạn , chảy chậm lại , không cuồn cuộn , ào ạt như thời gian vào hạ . Từ dềnh dàng cũng như từ chùng chình ở trên làm cho con sông trở nên duyên dáng , gần người hơn. Lúc này chim cũng vội vã hơn vì sợ lạnh phải đi tránh rét ở những miền ấm áp . Đặc biệt nhất là đám mây mùa hạ – vắt nửa mình sang thu là một liên tưởng sáng tạo thú vị . Sự thật , không hề có đám mây nào như thế . Vì làm sao có sự phân biệt rạch ròi bằng mắt thường trên bầu trời . Đó là đám mây trong liên tưởng , tưởng tượng của tác giả . Nhưng chính cái hình ảnh mùa hạ nối với mùa thu bởi nửa đám mây lững lờ , cũng dềnh dàng , chùng chình , bảng lảng trên tầng không làm cho người đọc cảm nhận cả về không gian và thời gian chuyển mùa thật là đẹp , thật là khêu gợi hồn thơ . có thể nói hình ảnh giao mùa thể hiện duyên dáng và thần tình nhất trong bài thơ là ở hai câu thơ : Có đám mây mùa hạ - vắt nửa mình sang thu . ở đây, cái dềnh dàng , cái chùng chình của sương , của sông , cái nhè nhẹ của gió , cái thoang thoảng của hương được kết đọng trong cái vắt nửa mình ngập ngừng của đám mây trên bầu trời giao mùa . Hữu Thỉnh cũng đã có những câu thơ , đoạn thơ gần giống tứ thơ này nhưng không tài hoa , bất ngờ thú vị bằng . 
Đi suốt cả ngày thu
Vẫn chưa về tới ngõ
Dùng dằng hoa quan họ
Nở tím bên sông Thương
Nắng thu đang trải đầy
Đã trăng non múi bưởi
Bên cầu con nghé đợi
Cả chiều thu sang sông .
	 	( Chiều sông Thương )
 Bài thơ sang thu của Hữu Thỉnh không những mang đậm chất dân gian làng quê dân dã , mang đậm hơi thở của ruộng đồng mà còn mang tính triết lí sâu sắc : 
Vẫn còn bao nhiêu nắng
Đã vơi dần cơn mưa
Sấm cũng bớt bất ngờ
Trên hàng cây đứng tuổi



 Ta thấy thiên nhiên trong Sang thu còn được nhà thơ gợi ra bằng những hình ảnh độc đáo : nắng , mưa , sấm chớp , hàng cây … Nắng mưa lúc sang thu cũng không giống như hồi giữa hạ . Nắng nhạt dần chứ không còn chói chang , dữ dội , gay gắt . Mưa cũng ít đi , nhất là những trận mưa rào , mưa dông ầm ầm ào ạt . Bởi vậy sấm cũng bớt bất ngờ trên hàng cây đứng tuổi . 
Sấm cũng bớt bất ngờ
Trên hàng cây đứng tuổi
 Hai câu thơ có hai tầng nghĩa : tả thực và ẩn dụ . sấm mùa hạ ít đi khi sang thu . bởi vậy hàng cây không còn bị giật mình , đột ngột . Nhưng đó còn là những âm vang ba động bất thường của ngoại cảnh , của cuộc đời . Và ở những con người từng trải , đứng tuổi thì tất nhiên sẽ vững vàng , trầm tĩnh hơn , càng không bị bất ngờ , giật mình trước những tác động của ngoại giới dù là những tiếng sấm đầu thu. Như vậy hai câu thơ không chỉ tả cảnh sang thu mà còn chất chứa suy nghiệm về con ngừơi và cuộc sống .
 Bài thơ sang thu của Hữu Thỉnh là khúc giao mùa nhẹ nhàng , thơ mộng , bâng khuâng mà cũng thầm thì triết lí , đã nối tiếp hành trình thơ thu dân tộc , góp một tiếng thơ đằm thắm về mùa thu quê hương , đem đến cho thế hệ trẻ tình yêu đất nước qua nét thu đẹp Việt Nam.
Phân tích : TRUYỆN NGẮN “ LÀNG ” CỦA KIM LÂN 
 Truyện ngắn Làng của nhà văn Kim Lân được viết vào những năm đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp và được in trong báo văn nghệ năm 1948 . Truyện ca ngợi tình yêu làng thắm thiết thống nhất với lòng yêu nước và tinh thần kháng chiến ở nhân vật ông Hai , môt nông dân phải xa làng đi tản cư . qua đó ta cũng cảm nhận được tinh thần yêu nước của nhân dân ta trong thời kháng chiến chống Pháp .
 Truyện Làng khai thác một tình cảm bao trùm và phổ biến trong con người thời kháng chiến . đó là tình cảm quê hương đất nước . Một tình cảm mang tính cộng đồng nhưng thành công của Kim Lân là đã diễn tả tình cảm tâm lí chung ấy trong sự thể hiện sinh động của một con người , trở thành một nét tâm lí sâu sắc ở nhân vật ông Hai .vì thế nó là tình cảm chung mà lại mang rõ màu sắc riêng cá nhân , in rõ cá tính của nhân vật . 
 Cũng như những người nông dân khác thời kháng chiến , ông Hai rất yêu làng , mảnh đất ông đã sinh ra và lớn lên , nơi cất tiếng khóc chào đời đầu tiên của ông . Đó là làng Chợ Dầu bằng một thứ tình cảm khá đặc biệt . Ông say mê kể về làng , luôn khoe làng mình , tự hào ở làng về nhiều mặt . Tình cảm ấy được bộc lộ tha thiết nhiệt thành khi ông phải xa làng đi tản cư . 
 Ông Hai nói chuyện về làng một cách say mê và náo nức lạ thường , hai con mắt ông sáng hẳn lên . Cái mặt biến chuyển hoạt động . Hơn thế nữa đây không phải là lần thứ nhất nói chuyện về làng . tối nào cũng vậy , lần nào cũng như lần nào , phần nói về làng cũng là phần để kết thúc câu chuyện . 
 Thái độ của ông Hai với làng thể hiện gọn gàng trong một chữ khoe , tám chữ khoe . Những lời khoe của ông thật đa dạng , khi thì hảnh diện , khi thì mê man giảng giải , khi thì rành rọt , khi nói liên miên . Ông Hai khoe làng ông có cái phòng thông tin tuyên truyền sáng sủa rộng rãi nhất vùng , chòi phát thanh cao bằng ngọn tre chiều chiều loa gọi cả làng đều nghe thấy . Ông khoe làng ông nhà ngói san sát sầm uất như tỉnh . đường trong làng toàn lát đá xanh . Ông Hai còn khoe cái sinh phần của viên tổng đốc làng ông . Ông có vẻ hảnh diện cho làng được cái sinh phần đó lắm . Cái dinh cơ cụ Thượng làng tôi có lăm lắm là của . Vườn hoa cây cảnh nom như động ấy còn hơn cả cái lăng cụ Thiếu Hà Đông . Sau cách mạng ở ông Hai có những nhận thức mới hơn trong việc khoe về làng mình . Ông không khoe cái lăng ấy nữa mà còn biết chính cái lăng ấy nó làm khổ ông , làm khổ những con người của làng ông . Bây giờ nói đến làng ông khoe những ngày khởi nghĩa , những buổi tập quân sự , những hố những ụ , những giao thông hào của làng ông . Thậm chí có đôi lúc ông Hai ngậm ngùi kể lại cả những chuyện phiêu dạt và những chuyện đẩu chuyện đâu . 
 Phải nói rằng những biểu hiện và tính khoe làng của ông Hai đó là tình yêu làng tha thiết . Yêu lắm về mảnh đất làng que nên khoe nên nói cho đỡ nhớ làng , đỡ nhớ phong trào cách mạng ở làng mà ông đã từng tham gia phụ lão cứu quốc và tham gia đào hào đắp ụ. Một biểu hiện khác của ông Hai cũng xuất phát từ tình yêu làng chợ Dầu , ông không muốn bỏ làng ra đi vào lúc hữu sự . Ông luôn luôn có suy nghĩ :Mình sinh sống ở cái làng này từ tấm bé đến giờ , ông cha cụ kị mình xưa kia cũng sinh sống ở cái làng này đã từ bao nhiêu đời nay rồi . Bây giờ gặp phải cái lúc hữu sự như thế này là công việc chung chứ của riêng ai . Ông Hai bị hoàn cảnh dồn ép khổ sở lắm . Ông không trực tiếp kháng chiến ở làng mà phải đi tản cư . Đi tản cư xa làng ông Hai không ngày nào , không lúc nào không nghĩ về làng . Nỗi nhớ làng luôn luôn túc trực trong lòng ông . Mọi nỗi nhớ ấy đều tập trung ở những hoạt động kháng chiến ; hát hò , đào hào , khuân đá . Tình yêu làng quê của ông Hai đã phát triển , đã được bồi dưỡng thêm bằng tình cảm mới – tình kháng chiến . Ông Hai không chỉ là người dân làng chợ Dầu , ông còn là một chiến sĩ gắn bó với phong trào kháng chiến của làng . 


 Nhà văn Kim Lân đã diễn tả một tình cảm , một nét tâm lí quen thuộc về truyền thống của người nông dân . tình cảm gắn bó với làng quê , tự hào về quê hương mình . Cái tâm lí tự hào đó cũng được ca dao thể hiện .
Anh đi anh nhớ quê nhà
Nhớ canh rau muống nhớ cà dầm tương
Nhớ ai dãi nắng dầm sương
Nhớ ai tát nước bên đường hôm nao.
 Cách mạng và kháng chiến đã khơi dậy ở người nông dân tình cảm yêu nước rộng lớn . Ở ông Hai tình cảm yêu làng là thống nhất với lòng yêu nước . Đúng như nhà văn I-li- aÊ ren bua có nói : … lòng yêu nhà , yêu làng xóm , yêu làng quê trở nên lòng yêu tổ quốc . Để mỗi người đọc chúng ta cảm nhận sâu sắc hơn tình cảm yêu làng yêu nước của ông Hai – người nông dân cách mạng . Tác giả đã đặt ông Hai vào một tình huống gay gắt . tình huống ấy là cái tin làng chợ Dầu theo giặc mà chính ông nghe được từ miệng những người tản cư qua làng ông . Một người luôn luôn khoe làng , tự hào về làng như ông Hai khi nghe tin đột ngột ấy không đau đớn sao được . ông Hai sững sờ Cổ ông lão nghẹn ắng hẳn lại , da mặt tê rân rân . Ong lão lặng đi tưởng như không thở được . Từ lúc ấy trong tâm trí ông Hai cái tin dữ ấy xâm chiếm , Nó thành một nỗi ám ảnh day dứt trong ông . Ra đường ông cuối gằm mặt xuống mà đi , về nhà nằm vật ra đường nước mắt trào ra . Bao nhiêu câu hỏi dày vò , rồi trằn trọc không ngủ được . Không chỉ có the mà suốt mấy ngày hôm sau ông Hai không dám đi đâu chỉ quẩn quanh ở nhà nghe ngóng , rồi nơm nớp lo chuyện loang ra . Ong Hai lo người ta đuổi người làng Việt gian thật là tiệt đường sinh sống . Mà ông cũng không thể về làng vì về là bỏ kháng chiến , bỏ cụ Hồ . Với ông làng thì yêu thật nhưng làng theo Tây thì phải thù . Tấm lòng của ông , tình yêu làng yêu nước của ông chỉ có một mình ông hiểu chẳng biết nói cùng ai . Ông đem nỗi lòng của mình trò chuyện cùng thằng con út cho vơi bớt lòng ông : Nước mắt ông lão giàn ra chảy ròng ròng trên hai má , chết thì chết có bao giờ dám đơn sai . Đó có phải chăng là tấm lòng của ông Hai . Tình cảnh của ông Hai , diễn biến tâm trạng của ông khiến ta cảm động biết bao, đồng thời cũng cảm nhân được tấm lòng thủy chung với kháng chiến , với cách mạng mà biểu tượng là Bác Hồ . 
 Nhưng có thể nói điều khiến ta xúc động hơn là tâm trạng của ông Hai khi nghe làng chợ Dầu được cải chính không theo giặc . Cái mặt buồn thiu mọi ngày bổng vui tươi hẳn lên ông gọi con ra chia quà . Ông múa tay múa chân lên mà khoe , xúc động nhất là ông Hai chẳng hề nghĩ tiếc hay buồn về ngôi nhà riêng của ông bị giặc đốt . Niềm vui vì làng không theo giặc , không làm Việt gian đã chiếm hết tâm trí ông , đau khổ bế tắt đã được khơi thông . Lúc này ông Hai nói chuyện về làng mình cho mọi người nghe thật rành rọt , tỉ mỉ như chính ông vừa được dự trận đánh mới về . Có thể nói rằng ông Hai là một hình ảnh đẹp của những người nông dân bình thường nhưng giàu lòng yêu nước . Một mẫu người đáng quí của dân tộc ta trong những năm trường kì kháng chiến chống thực dân Pháp . 
 Bên cạnh thành công về mặt nội dung truyện làng Kim Lân còn thành công về mặt nghệ thuật . Truyện xây dựng cốt truyện theo diễn biến tâm lí có sức thuyết phục và có ý nghĩa sâu sắc chính vì tình cảm quê hương của một người dân có tinh thần kháng chiến . Ngôn ngữ nhân vật được miêu tả nhuần nhuyễn , lời ăn tiếng nói dân dã , mộc mạc . Tác giả có tài miêu tả tâm lí nhân vật , xây dựng tình huống truyện độc đáo giúp cho người đọc khi gấp sách lại vẫn còn thấy bồi hồi xúc động về tình yêu làng của ông Hai , về nghệ thuật kể chuyện tạo tình huống hấp dẫn , hồi hôp của Kim Lân .
 Đọc tác phẩm Làng của nhà văn Kim Lân , tác giả đã để lại trong ta một ấn tượng tốt đẹp về hình ảnh ông Hai . Một nông dân hay làm hay khoe , gắn bó bền chặt với làng . Tình yêu làng gắn với tinh thần kháng chiến , lòng yêu nước , một lòng theo Cụ Hồ . Đồng thời cũng cảm nhận sự sáng tạo tình huống truyện của một cây bút có sở trường viết về nông dân , viết về làng quê của nhà văn Kim Lân .
Phân tích : Anh trăng (Nguyễn Duy)
Mình về thành thị xa xôi
Nhà cao còn thấy núi đồi nũa chăng
Phố đông còn nhớ bản làng
Sáng đèn còn nhớ ánh trăng cuối rừng .
 ( Tố Hữu )
 Trăng là đề tài muôn thuở của thi ca . Với ánh sáng hiền diệu , với chu kì tròn khuyết lạ lùng , trăng đã gợi cho các thi nhân cổ kim nhiều ý tưởng sâu xa . Nguyễn Duy là nhà thơ lớn lên từ đồng quê , trăng như một ám ảnh . Rồi xê dịch với thời gian , và không gian , trăng vẫn theo đuổi nhà thơ và thế là thành thơ , thành triết lí .. ( dẫn bài thơ ).



 Bài thơ “ Anh trăng ” được viết theo thể thơ năm chữ , nhịp điệu linh hoạt để thể hiện sự vận động của không giạn , của thời gian . Nếu như trong bài thơ “ Tre Việt Nam ” Câu thơ lục bát có khi được tách ra thành 2 hoặc 3 dòng thơ để tạo nên hiệu quả nghệ thuật biểu đạt gây ấn tượng , thì bài thơ “ Anh trăng ” này lại có một nét mới . Chữ đầu của dòng thơ , câu thơ không viết hoa . Phải chăng nhà thiơ muốn cho cảm xúc được dào dạt trôi theo dòng chảy của thời gian kỉ niệm ? 
 Hai câu thơ đầu nhà thơ nói về vầng trăng của tuổi thơ và vầng trăng của thời chiến tranh . 
Hồi nhỏ sống với đồng
với sông rồi với bể
 Vầng trăng tuổi thơ trải rộng trên một không gian bao la . Hai câu thơ 10 tiếng , gieo vầng lưng ( đồng – sông ) , từ “ với ” được điệp lại 3 lần nhằm diễn tả một tuổi thơ đi nhiều , được hạnh phúc cảm nhận những vẻ đẹp kì thú của thiên nhiên , từng được ngắm trăng trên đồng quê , ngắm trăng trên dòng sông và ngắm trăng trên bãi bể . Ta thấy hồi ức được kể lại bằng hình ảnh . Hình ảnh chuyển rất nhanh , cái hay là bằng hình ảnh không gian đã diễn tả được sự vận động của thời gian . 
 Hai câu thơ tiếp theo nói về thơì chiến tranh , vầng trăng của người lính , trăng đã thành tri kỉ . 
Hồi chiến tranh ở rừng 
Vầng trăng thành tri kỉ 
 Tri kỉ là biết người biết mình , bạn tri kỉ là người bạn rất thân , hiểu biết mình . Trăng với người lính , với nhà thơ trong những năm ở rừng thời chiến tranh đã trở thành đôi bạn tri kỉ . Người chiến sĩ nằm ngủ dưới trăng , giữa rừng khuya sương muối , người chiến sĩ đứng chờ giặc tới . Con đường hành quân của người lính nhiều đêm đã trở thành con đường dát vàng . Trăng đã chia sẻ ngọt bùi hân hoan trong niềm vui thắng trận với người lính tiền phương . Đất nước đã trải qua những năm dài máu lửa , trăng với anh bộ đội đã vượt lên mọi tàn phá hủy diệt của bom đạn quân thù . Thật thú vị khi đọc những vầng thơ của Nguyễn Duy vì nó đã mở ra trong lòng nhiều người một trường liên tưởng .
Hồi chiến tranh ở rừng 
Vầng trăng thành tri kỉ 
 Sang khổ thơ thứ 2 như một lời nhắc nhở của tác giả về những năm tháng gian lao đã qua của cuọc đời người lính gắn bó với thiên nhiên , với đất nước bình dị , hiền hậu . Bằng nghệ thuật ẩn dụ , so sánh nhà thơ làm nổi bật chất trần trụi , chất hồn nhiên của người lính những năm tháng ở rừng . Đó là cốt cách của các anh . 
Trần trụi với thiên nhiên
hồn nhiên như cây cỏ
ngỡ không bao giờ quên
cái vầng trăng tình nghĩa
 Vầng trăng là biểu tượng của những ăm tháng ấy , đã trở thành vầng trăng tri kỉ , vầng trăng tình nghĩa , ngỡ như không bao gì có thể quên . Một ý thơ làm động đến tâm hồn như một thức tỉnh lương tâm đối với những kẻ vô tình .
 Sự thay đổi của lòng người thật đáng sợ . Hoàn cảnh sống thay đổi con người dễ thay đổi , có lúc trở nên vô tình , có kẻ dễ trở thành “ ăn ở bạc ”. Từ ở rừng , sau chiến tranh trở về thành phố được sống sung sướng ở buynh đinh cao ốc , quen ánh điện cửa gương , vầng trăng tri kỉ – vằng trăng tình nghĩa đã bị người lãng quên dửng dưng . Cách so sánh của tác giả làm chột dạ nhiều người .
Từ hồi về thành phố
quen ánh điện cửa gương
vầng trăng đi qua ngõ
như người dưng qua đường
 Trăng được nhân hóa lặng lẽ đi qua đường , trăng như người dưng đi qua chẳng còn ai nhớ , chẳng còn ai hay . Những câu thơ rất bình dị , giọng thơ thầm thì như trò chuyện , giải bày tâm sự cho nên chất trữ tình của thơ trở nên sâu lắng chân thành .
 Cũng như dòng sông có thác ghềnh , quanh co uốn khúc . Cuộc đời người cũng có những biến động li kì . Ghi lại một tình huống “ Cuộc sống thành thị ” của những con người mới ở rừng về thành phố , nhà thơ chỉ sử dụng 4 câu thơ 20 từ . Các từ “ Thình lình ”, “ vội ”, “ Đột ngột ” gợi tả tình thái đầy biểu cảm 
Thình lình đèn điện tắt
phòng buyn đinh tối om
vội bật tung cửa sổ
đột ngột vầng trăng tròn


Trăng xưa đã đến với người , vẫn tròn , vẫn đẹp , vẫn thủy chung với mọi người , mọi nhà , với thiên nhiên , với người lính . Người ngắm trăng rồi suy ngẫm bâng khuâng 
ngửa mặt lên nhìn mặt
có cái gì rưng rưng
như là đồng là bể
như là sông là rừng.
Hai chữ “ mặt ” trong đoạn thơ . Mặt trăng . mặt người cùng “ Đối diện đồng tâm”. Trăng chẳng nói , trăng chẳng trách , thế mà người lính cảm thấy “ có cái gì rưng rưng ” . “ Rưng rưng ” nghĩa là v

File đính kèm:

  • docNHUNG BAI VAN CHON LOC LOP 9.doc
Đề thi liên quan