Truyện dài Những thiên đường mù Chương 9

doc15 trang | Chia sẻ: dethi | Lượt xem: 1252 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Truyện dài Những thiên đường mù Chương 9, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
truyện dài
Những thiên đường mù
Chương 9
Mùa xuân qua rất nhanh. Rồi mùa hè. Cậu Chính tôi không đến nữa. Mẹ tôi không còn buồn khổ như hồi đầu tiên, khi bị cậu hất hủi. Tôi học khá, mỗi tháng 1 lần tôi viết thư cho cô Tâm báo cáo việc học hành. Từ nay, tôi là con người khác, tôi có guồng máy khác thống trị. Đó là vinh quang của dòng họ Trần, của ông tôi, của bố tôi. Và tất cả được giao lãnh cho cô Tâm. Thư tôi gửi cho cô chỉ vài dòng. Thư cô trả lời đặc 4 trang giấy. Phần đối thoại với cuộc đời bị ngắt quãng cô dồn cả về cho tôi. Cô kể cho tôi nghe đủ thứ chuyện: Nào là đêm rằm tháng trước cô tới chùa Pheo, nghe sư ông tunïg kinh cả đêâm, về nhà nhẹ lâng lâng như được uống thuốc cải lão hoàn đồnn. Nào là trong vườn cam, còn sót lại 1 gốc ổi, sát bờ dậu. Vừa rồi gốc ổi ấy bỗng bị mối đùn to như đống rơm, khiến người làng xôn xao bàn tán. Cô đã đi xem bói và ông thày mù bảo đó là điềm báo trước họ Trần sắp phát quí, phát phú. Ngôi sao ứng nghiệm lại là Thái âm nên người thành đạt là phụ nữ. Nào mùa cam năm nay, cô bán được 6000 quả, còn lại dăm trăm quả cô vùi cát nhờ người chuyển dần lên Hà Nội cho tôi ăn... Thư nào cũng có lời dặn dò, khích lệ. Mùa thu năm ấy mẹ tôi chữa lại bức tường phía sau bếp. Tôi bảo mẹ tôi bán đôi hoa tai cô Tâm cho tôi để lợp lại mái nhà, ném tấm tôn và lớp giấy dầu đi. Mẹ tôi không chịu: - Vốn cô Tâm cho riêng con, không đụng tới được. Tôi nói: - Nhưng con muốn thế. Mẹ bảo: - Của cô, con không thể tùy tiện dùng. Tôi cãi: - Nhưng cô đã cho con. Mẹ lại bảo: - Cho là 1 chuyện. Cho con để con đeo. Bán đi là chuyện khác. Tôi cáu: - Nhưng con còn nhỏ, con không muốn đeo vàng trong khi ở mái nhà dột nát thế này. Mẹ tôi thở dài, hồi lâu mẹ hạ giọng: - Bây giờ bố con mất, mẹ nuôi con, không lo sửa được mái nhà mẹ xấu hổ với cô Tâm, với bà con họ mạc. Thôi, mẹ xin con. Hãy chờ mẹ ít lâu. Từ ngày cô Tâm xuất hiện, mẹ không còn gọi tôi là em, cũng không nựng nịu tôi nhiều như cũ. Mẹ xa hơn, e ngại, và dè chừng. Chúng tôi vẫn sống dưới mái nhà cũ. Mái nhà mà xưa kia, dưới bòng mát của nó, bố mẹ tôi đã thương yêu nhau và sinh nở ra tôi. 1 cuộc ái ân không ở trong cũng không ở ngoài pháp luât. Và tôi, đứa bé không được thừa nhận, đã lớn lên như loài cỏ không tên vẫn mọc đầy các chân tường. Mẹ không chịu bán đôi hoa tai của tôi lấy tiền chữa mái nhà. Những ngày nắng, mùi nhựa chảy trên các tấm giấy dầu bốc lên hôi khét, như mùi hỏa ngục. Ngày mưa, nhất là những ngày mưa thu, tiếng mưa gõ trên mái tôn buồn kinh hoàng. 1 mái nhà chia đôi: nửa xám, nửa đen giống 2 mảnh vá cùng gá trên 1 vạt áo cũ. Hình ảnh ấy không bao giờ rời tâm trí tôi. Cuối đông, giữa phố bỗng mọc lên 1 quán bia nhỏ. Những tay anh chị vô nghề nghiệp tụ lại ở đó, ngươi chạy bia từ các cửa hàng quốc doanh đem về, người bưng mẹt đồ nhắm, thông thường là lạc rang, lạc luộc, vó bò, nộm đu đủ tới bán. Sau này quán bia phình ra mãi, thu nạp thêm những khách nhậu lắm tiền. Chủ yếu là cánh lái xe ngoại tỉnh và đám dân buôn xe đạp, xe máy. Người bán đồ nhắm tăng lên và cấp độ thức nhắm cũng tăng lên theo. Ngoài những mẹt hàng nôm và lạc, còn có các gánh thịt chó, các lò than quạt lạp sường, mực nướng, khô cá thiều nướng và thịt bò khô dầm tương ớt. Mùi thơm ngạt ngào bay khắp phố. Lũ bợm nhậu lúc say sưa, bất cứ góc tường nào cũng loạng quạng xô tới rót nước tiểu. Những dòng nước tiểu khô thành vệt dưới chân tường. Mùi khai lưu cữu vào những ngày trở trời xông lên nhức óc. Ngõ phố trở nên đông đúc, nhộn nhạo. Chợ gần kế đó cũng sầm uất lây. Mẹ tôi và các bạn hàng khấm khá lên trông thấy. Mẹ thu góp nhặt tiền, tính toán. Mẹ mua sẵn 2 tạ sắt và vài nghìn gạch máy dự định Tết xong sẽ nâng cao thêm tường và đổ mái bằng. Chỉ còn lo ximăng và công thợ. - Cứ chờ cho mẹ qua Tết. Mẹ bảo tôi, hớn hở. Dáng điệu tự tin hẳn lên. Có lẽ, trước sức mạnh kinh tế của cô Tâm, mẹ mặc cảm. Mẹ nghĩ rằng sự lo toan về phương diện vật chất của người chị chồng sẽ làm cho giá trị của mẹ giảm đi. Đôi khi, những suy nghĩ của người lớn thật phiến diện và nông cạn. Tôi nói với mẹ: - Mẹ không cần lo nhiều quá. Mẹ đáp: - Qua Tết, mẹ con mình sẽ có mái nhà mới. Khỏi lo dột, lo nóng. Không cần đến hoa tai của cô Tâm. Mắt mẹ sáng lên đắc thắng. Nhưng mẹ không gặp may. 1 chiều, đi học về tôi thấy mẹ đang xếp hàng vào góc nhà. Tôi hỏi: - Sao mẹ về sớm thế? Mẹ bảo: - Có việc. Con rửa mặt mũi, thay áo quần rồi đi với mẹ thăm cậu Chính. Cậu ốm nặng, khó bề qua khỏi. Mau lên. Nói xong, mẹ chạy vào buồng thay quần áo. Tôi chưa thấy mẹ vội vã như thế bao giờ. Tôi cất cặp, thay áo quần ngay. 2 mẹ con tôi ra đầu phố, gọi xích lô. Từ đó tới bệnh viện hết nửa giờ. Đang lúc tan tầm, đường đông nghẹt xe pháo. Ởû bệnh viện cũng tấp nập người ra vào, người mang cơm, người tới thăm nom, người ôm từng chồng quần áo đi giặt. Gác cổng bệnh viện là 1 ông lão ngoại ngũ tuần, béo phì, mặt như người mắc chứng thần kinh hoang tưởng. Giá cứ đi thì lại xong. Mẹ tôi thận trọng đến trước cửa phòng trực, xưng danh, sau đó mới xin phép vào thăm người ốm. Ông gác cổng nhìn chúng tôi bằng 1 con mắt, con mắt kia ông ngó xuống địa ngục hoặc nhìn lên thiên đường. Ông hỏi những câu ngô nghê nhưng đầy vẻ quan trọng. Rút cục ông phát 1 cái lệnh rất quí tộc: - Chờ đã, tôi giải quyết sau. 1 mệnh lệnh có thể gặp nhan nhản trong suốt thời buổi này. Tôi kéo áo mẹ, lùi ra cổng. Chừng 2 phút sau. ông ta đã cúi xuống đọc báo. Tôi bảo mẹ: - Đừng hỏi, cứ đi thẳng mẹ nhé. Mẹ ngần ngừ: - Thôi, nhỡ người ta biết. Tôi gắt: - Mẹ hay nhỉ, mìnhh có ăn trộm cắp gì mà lo. Tôi kéo tay mẹ đi. Chúng tôi đã vượt qua cổng chính vào sân viện 1 cách bình yên. Từ đó, chúng tôi phải lần mò qua 4 tòa nhà cao tầng, hỏi hết người này qua người khác mới tới được căn phòng cậu nằm điều trị. Ông già nằm cùng phòng với cậu bảo: - Anh ấy vừa xuất viện chiều hôm qua. 2 mẹ con chị đến muộn rồi. Mẹ tôi đứng bần thần, mãi mới cất được tiếng hỏi: - Thưa bác, có đúng người bệnh là Đỗ Quốc Chính không? Ông già đáp: - Phải, ngày nào y tá chẳng gọi tên từng người đi tiêm. Mẹ tôi nói: - Nhưng cháu nghe bảo cậu ấy bệnh nặng, khó bề qua khỏi. Ông già cười: - Ngất đi như thế người ta dễ sợ về chầu Diêm Vương. Nhưng anh Chính chỉ ngất vì hạ đường huyết. Cái bệnh chung của lũ cán bộ chúng tôi: đói, thiếu dinh dưỡng... Vào đây được tiếp có 1 phần tư lít nmáu lại tươi ngoay ngoảy. Mẹ tôi nhìn nụ cười của ông, bán tín bán nghi. Ông già thấy thế, lắc đầu: - Ô hay, chẳng lẽ tôi nói dối chị hay sao? Cứ về nhà anh ta ngay bây giờ, khắc biết. - Mẹ con cháu xin đa tạ bác. Chúng tôi ra viện, qua ông già gác cổng. Ông ta đã bỏ tờ báo xuống bàn, nhìn chúng tôi như nhìn vào đám sương mù. Cửa viện chen chân cũng không được. Hàng quà bánh ngồi la liệt không thứ tự. Khó nhọc, chúng tôi mới lách ra được ra. Mẹ tôi lần túi áo rất lâu, móc 1 tấm giấy lịch, trong đó ghi địa chỉ cậu Chính. Tờ lịch cũ, nhàu nát, đọc mãi mới ra mặt chữ. - Xích lô. 1 chiếc xích lô cọc cạch lao tới từ dãy xe chờ sẵn. Người đạp là 1 thanh niên vạm vỡ. Tóc húi móng lừa: - Đi đâu bà chị? - Chú cho 2 mẹ tôi con tôi về tập thể K. - 2 sọi nhé? - Vâng. - A ha, bà chị này nhẹ vía đấy. Nào, lên đi. Anh chàng xích lô hăng máu thí mạng. May mà đường đã vắng. Hồ Thuyền Quang như mảnh gương xanh thẫm thấp thoáng qua rặng cây. 1 người đàn bà béo múp míp, mặc áo lụa mỡ gà phóng xe máy vọt lên, vừa phóng xe vừa cười tít mắt. Phía sau, cũng có 1 phụ nữ đã qua tuổi ngũ tuần, cưỡi Honda đuổi theo. Anh chàng xích lô phởn chí, hét lên: - Ếp ếp ếp... Xe đi hết non 1 giờ đồng hồ mới tới nơi. Mẹ tôi trả tiền, cảm ơn anh chàng đạp xích lô. Anh ta trợn mắt nhìn hồi lâu rồi bảo: - Bà chị ngày tử tế nhỉ! Nói đoạn anh giơ tay vẫy, miệng huýt sáo rồi đạp xe đi. Chúng tôi đi qua 1 phòng trực ghép bằng gỗ, kiểu như những trạm chỉ đường của công an trong thành phố, nhưng không sơn xanh hoặc sơn trắng mà sơn màu cánh dán. Nhìn gần, thật khó coi. Ngồi trong phòng trực là 1 ông già hói, gầy tong teo, vừa ho khù khụ vừa liếc nhìn khách qua đôi tròng kính lão: - Đỗ Quốc Chính? Có đấy. Tôi vừa thấy anh ta dắt đứa con lớn đi qua đây buổi chiều. Chị có giấy tờ gì không? - Dạ, cháu có chứng minh thư nhân dân. Ông già ngần ngừ vài giây rồi hất tay: - Thôi khỏi cần. Cho mẹ con chị đi. Con đường trải nhựa bề ngang chỉ độ ngót nghét 3 thước, nhưng khá dài. 2 bên đường, những thùng gỗ lớn bằng gian nhà xếp thành dãy. Thùng nào cũng vẽ dấu hiệu chống va đập, dễ vỡ. Hoặc chiếc ô hoặc chiếc ly thủy tinh. Nhìn nhãn in bằng mực trên lớp gỗ thông, có thể biết đó là những côngtennơ chở hàng viện trợ thời chống Mỹ. Những nét chữ đã phai màu. Lớp gỗ cũng đã ải. Mẹ con tôi đi hết đường, rẽ sang trái. Nơi đây, có những khu nhà 1 tầng kiểu như những dãy trường học cấp 1 xếp song song. Nhà nọ giống nhà kia như 2 giọt nước, cùng 1 kiểu kiến trúc, cùng màu vôi tường vàng nhạt, cửa sổ và cửa ra vào sơn màu cánh dán, trông thô lậu, gớm ghiếc. Nhà nhà đã lên đèn. Người ta đang ăn cơm. Đi ngoài đường có thể nhìn rõ mồn một. Mẹ tôi lại móc túi tìm tấm lịch. Lần này, mẹ ghé hẳng vào ánh đèn, đọc lẩm nhẩm: số 56 nhà G. Chúng tôi ngước nhìn đầu hồi của từng căn: A, B, C, D... G là dãy cuối cùng, sát vào bức tường phần cắt khu tập thể K với 1 cơ quan khác. Có lẽ đấy là 1 nhà máy in vì nghe rõ tiếng máy in chạy rùng rùng bên kia tường. Gia đình cậu Chính đang ăn cơm. Cả nhà ngồi trên phản. Cậu tôi, 1 người đàn bà mặt rỗ hoa tóc kẹp và 2 đứa con trai, đứa lớn chừng lên 7, đứa nhỏ trạc lên 3. Cả 2 đứa gầy như 2 con nhái. Cậu tôi, so với hồi đầu đã sút đi non nửa. 2 hô xương quai xanh nhô lên. Cái mũi dọc dừa giống mũi mẹ tôi teo hết thịt, trơ xương sống lá mía. Cậu mặc quần ngủ với cái áo bông phai màu. - Cậu Chính. Mẹ tôi gọi tên đứa em trai, ngay từ lúc đứng ngoài hè. Cả 4 người đều quay ra, nhưng quáng đèn nên họ không thể nhìn rõ mặt chúng tôi. - Cậu Chính. Mẹ tôi cất tiếng gọi lần thứ 2, vẫn giọng bồi hồi. Không chờ câu trả lời, mẹ dắt tôi vào nhà: - Tôi nghe cậu ống nặng. Vào viện tìm quanh quất mãi, người ta bảo cậu đã xuất viện chiều hôm qua. Cậu tôi đứng lên, bảo người đàn bà mặt rỗ hoa: - Thành này, đây là chị Quế. Rồi quay sang mẹ con chúng tôi cậu giới thiệu: - Nhà em, cán bộ trường Đoàn. Bà mợ tôi, nghe chồng nói thì à lên 1 tiếng, rồi gật đầu. Mẹ tôi chưa kịp chào lại. mợ ta đã quay đũa gõ lên đầu đứa con trai: - Ăn đi, trong bữa cơm không được há mồm ra. Tôi thấy mẹ tôi có vẻ ngượng ngùng, tay chân mẹ thu cất, đôi vai cũng như co lại trước cái nhìn có tính chất quan sát nghiêm ngặt của người em dâu. Có lẽ mợ ta đã quen quan sát các học viện trường Đoàn như thế. Cái nhìn sắc lạnh lướt từ tấm khăn nhung choàng cổ, tới tấm áo len dài tay màu be thẫm đính hàng khuy mạ vàng trang nhã, từ chiếc làn nhựa mẹ tôi xách trong tay tới chiếc quần sa tanh ngoại mẹ tôi đang mặc có viền bôđê gấu. Nó bộc lộ cuộc sống của lớp dân sống ngoài biên chế nhà nước, nó cũng định vị luôn giá trị của họ trong xã hội. Cậu tôi rót nước sôi vào ấm, rồi từ ấm rót ra 1 thứ nước trắng phếch, có lẽ bã chè đã được pha đi pha lại từ chiều hôm qua. - Chị và cháu uống nước đi. Mẹ tôi khẽ đáp: - Vâng. Cậu cứ ra ăn cơm cho xong bữa. Rồi mẹ đưa mắt trìu mến nhìn 2 đứa bé trai giống 2 con nhái bén kia: - 2 cháu đấy phải không? Cậu tôi gật đầu: - Vâng, thằng Tuấn, thằng Tú. Chào bác đi con. Lúc ấy 2 đứa mới đồng thanh: - Chào bác. Mẹ tôi, từ nãy lúng túng như gà mắc tóc, liền bán víu tiếng chào của 2 đứa bé: - Ối giời, cháu tôi ngoan quá. Cháu Tuấn học lớp mấy rồi? Thắng bé lại giương mắt chầu chẫu ra nhìn. Cậu tôi bảo: - Trả lời bác đi. Nó liền đáp: - Cháu học lớp 2. Nói xong, nó cúi xuống chọc đũa vào đĩa nhộng rang hành. Chợt thằng em kêu ré lên, Nhanh như cắt, mẹ nó trở đũa gò lên đầu con: - Tuấn, làm cái gì thế hả? Hóa ra thằng bé gắp nhầm phần thức ăn của đứa em, không biết cố tình hay vô ý. Bị đánh, nó giơ tay xoa đầu, không dám kêu. Mẹ tôi cúi mặt xuống. Đĩa nhộng, lúc ấy tôi mới để ý, gạt làm 3 phần, mỗi phần chừng 15,16 con. Ngoài đĩa nhộng, có 1 đĩa rau muống luộc và 1 chiếc chén nhỏ, loại chén dùng đựng nước mắm hay múc chè, đụng thịt nạc băm. Chắc chắn, đó là phần bồi dưỡng cho cậu Chính. Cậu tôi đã ăn xong bát cơm, trở lại bàn uống nước. Mợ Thành cũng đã ăn xong, bưng cốc nước sôi để nguội uống 1 lèo rồi ra ngồi xuống ghế làm việc. 1 cái ghế tựa cao, đặt trước bàn viết có cây đèn chân ốc. Cậu tôi bảo: - Nhà em phải soạn bài để mai lên lớp. Cô ấy là cán bộ cứng của trường. Gia đình đều là công nhân,11 tuổi Đảng. - Vâng. Mẹ tôi đáp, vẫn không ngẩng mặt lên. Trước những lời giới thiệu đầy kiêu hãnh của cậu tôi, bà cảm thấy tủi nhục. 1 người chị ruột, nhưng chẳng có 1 giá trị nào mang lại niềm an ủi cho đứa em. Cậu tôi vừa xỉa răng vừa nói: - Em vẫn còn được nghỉ. Nhưng không có gì nguy hiểm. Chị không cần lo. Cơ quan em, toàn gia đình cán bộ, ra vào khó khăn. Mẹ tôi nuốt nước bọt. Nhưng ngập ngừng 1 lát, lại ngẩng lên: - Nhưng... tôi nghe nói cậu yếu lắm, suy dinh dưỡng. Cậu tôi bảo: - Chị nghe người ta nói nhảm. Vừa qua, em làm việc căng thẳng quá. Giọng cậu lạnh tanh. Mẹ tôi không nói thêm được lời nào, cầm nón, xách làn đứng lên: - Thôi, thế chị về. Cậu tôi gật đầu: - Chị bảo cháu về đi. Rồi quay vào nhà, cậu gọi: - Thành ơi, chị Quế về. Vợ cậu ngẩng lên: - Chào chị. Đó là câu chào duy nhất tứ khi mẹ con tôi đặt chân vào nhà. Nói xong, bà mợ tôi lại cúi xuống cuốn sách. Một cuốn sách rất dày, láng bóng. Nhìn kĩ, có đề chữ: V.I. Lênin tập 13. Cậu tôi lại bảo: - Chào bác đi các con. 2 đứa con trai cậu vươn 2 cái cổ cò ra, đồng thanh: - Chào bác. Mẹ con tôi ra về. Cậu Chính đưa tiễn hết dãy nhà G. Khi chúng tôi rời khu nhà tập thể, rẽ vào con dường nhỏ 2 bên chất san sát những dãy côngtennơ, mẹ tôi thút thít khóc. Đầu mẹ cúi gằm xuống, đôi vai mỏng nhô lên. Dáng điệu của 1 kẻ phạm lỗi. Tôi bảo: - Đừng bao giờ đến đây nữa mẹ ạ. Mẹ tôi rút khăn lau mặt, hỉ mũi sụt soạt rồi nói: - Tình ruột thịt. Không bỏ được con ạ. Tôi nói: - Lần sau mẹ đến, con không đến nữa đâu. Mẹ im lặng, đôi vai rung lên. Từ lúc ấy cho tới khi ra đường, mẹ tôi không nói thêm lời nào. Tôi cầm chiếc nón cho mẹ rồi gọi xích lô. Chúng tôi trở về khu ngoại ô lấm bụi. Những đĩa nhạc cải lương não nề vọng oang oang ngoài phố, giọng ca này lấn át giọng cakia. 1 hàng phở rong bắt đầu gõ dịp: - Xịt tắc... xịt tắc... Mùi nước dùng có hoa hồi và gừng nướng thơm ngậy bay theo gió. Tôi nắm áo mẹ: - Con đói quá, mẹ ơi! Mắt mẹ tôi như mờ đi. Mẹ bảo: - Ờ, thế mà mẹ quên mất. Từ trưa đến giờ 2 mẹ con chẳng ăn gì. Chúng tôi ngồi ăn phở gánh ngay lối rẽ. Ăn xong, mẹ tôi bỗng kêu khó chịu: - Đi mau lên, mau lên con... Mẹ bảo tôi rồi dấn bước như ma đuổi. Tôi vừa đi vừa chạy mới kịp. Vừa về tới nhà, mẹ tôi chạy nhào ra bể nước. Ngồi thụp xuống miệng cống, mẹ nôn thốc nôn tháo: - Hằng ơi, gọi cô Vị cho mẹ đi con. Tôi chạy sang nhà cô Vị, đấm cửa thùm thùm: - Cô Vị ơi, cô Vị, mẹ cháu làm sao ấy. Người đàn bà láng giềng đang ngồi cắn hạt dưa, ném ngay nắm hạt dưa trong tay xuống giường rồi chạy sang nhà tôi. Theo sau cô, lốc nhốc cả 4 đứa con lớn bé. Chú Vị làm ca 3, phải tảng sáng mới về. Cô Vị bế thốc mẹ tôi vào nhà, đánh gió, dùng ngải cứu khô đốt các huyệt. Cô lại xoa dầu trùm khắp đầu, lay giật chân tóc. Mẹ tôi tỉnh, mở mắt nhìn cô: - Tôi cảm lạnh, phải không? Cô Vị đáp: - Cả lạnh, cả đói, cả lao tâm. Chị cảm nhập tâm, phải kiêng lâu đấy. Mẹ tôi nắm tay người đàn bà láng giềng, nước mắt chảy quanh: - Tôi thương con Hằng quá, cô ạ. Lúc ấy tôi đứng sau lưng cô Vị. Vì tôi khuất lấp trong bóng tối, cùng lũ con lốc nhốc của cô Vị nên mẹ không nhìn thấy tôi. Nhưng tôi thấy gương mặt mẹ, vòng nước mắt ứa long lanh, và 1 nỗi buồn tiên cảm, 1 trắc ẩn mơ hồ trong tia nhìn lúc đó. Tôi bỏ ra cửa. Tôi không muốn thấy người khác xót thương tôi. Tôi ngồi thụp xuống, trong bóng tối của lùm cây đăng tiêu bên dàn hoa nhà cô Vị trùm sang. Mấy năm nay, người trong ngõ thi nhau trồng thứ hoa này. Đó là 1 loài dây leo có vẻ đẹp cuồng dại. màu lá xanh quá thể xanh. Với những chùm hoa chi chít màu nghệ thắm, màu của máu, của lửa, của ráng chiều, của mặt trời giữa ngọ cùng lúc hòa trộn nhau. Tôi ngồi đó, nghe tiếng trò chuyện trong nhà vọng ra. Mùi dầu tràm, mùi ngải cứu cháy vẫn tỏa trong không gian, thơm ngai ngái. Bỗng dưng, 1 con vật lừ lừ đi tới. 1 con chó lạc chăng, hay con mèo của chú Tín bỏ đi hoang ba bốn tháng lại quay về? Nó vẫn lử thử bước tới. Qua cây cột đèn, tôi nhận ra đó là con Trắng xồm. - Trắng xồm... Trắng xồm... Tôi gọi thì thầm, Giọng tôi trở nên lạc điệu, xa lạ như giọng của 1 người nào khác. - Trắng xồm, lại đây... Con chó khẽ đụng đậy cái tai xơ xác, chảy thõng 1 bên đầu. Có lẽ nó không nhận ra tiếng gọi của tôi. Nó lượn lờ thêm nửa vòng nữa. Lúc tôi tưởng nó đến gần, nó lại đi, quay trở lại đường cũ. Con Trắng xồm đi qua cây cột đèn, cái bóng nhù hòa như 1 mảnh vải rách ai kéo lê trên hè phố. Đúng lúc ấy, anh con trai què của bà Miều lại gào lên. Anh ta ngồi suốt ngày trên ghế vải bố, có lúc anh ta đòi lấy vợ, có lúc anh ta đòi nhảy xuống giếng tự vẫn, có lúc anh ta đòi đi học nghề. Nhưng rút cục, anh ta chỉ biết đọc biết viết và không làm cái nghề nào khác hơn là ngồi trên ghế, đọc đi dọc lại vài cuốn truyện trinh thám, tán tỉnh chòng ghẹo bọn trẻ con, bị bọn trai trẻ chòng ghẹo lại, nghe đủ loại chuyện tục tĩu, mơ tưởng tới cuộc sống trên thiên đường, và thỉnh thoảng lại gào lên: Mùa thu sang lá vàng rơi đầy Hàng bạch dương buồn im xác xơ ven đồi... Giọng hát sai lạc rót vào nỗi sầu phố xá. Hòa với tiếng rao hàng: - Bánh nóng đây. Bánh nóng óng óng đây ây ây... Tiếng 2 cây tre gõ nhịp của gánh phở rong: - Xịt tắc... xịt tắc... tắc xịt tắc... Cô Vị kéo lũ con ra về. Giơ tay xoa đầu tôi, cô bảo: - Mẹ mày đỡ rồi đấy. Vào ngủ đi. Tôi đóng cửa, trèo lên giường. Mẹ tôi đã ngũ. Nhưng tôi vẫn như thấy đôi mắt long lanh của mẹ, mỗi tia nhìn ánh lên 1 nỗi buồn tiên cảm. Có lẽ, ý nghĩ cuối cùng của con người trước khi bước vào giấc ngủ thường có được linh cảm tính nhạy, như tia sáng cuối cùng lóe lên trước khi tắt mặt trời. Sáng hôm sau, mẹ tôi vẫn sốt. Nhưng khi tôi mua cháo ép mẹ ăn, mẹ lại nắm tay tôi: - Được rồi, mẹ sẽ ăn. Nhưng con phải hứa 1 điều. Tôi gật đầu: - Mẹ ăn cho khỏi ốm. Điều gì con cũng hứa. Đôi mắt của mẹ lóe lên: - Con thương mẹ chứ? Tôi đáp: - Sao con không thương mẹ? Mẹ ăn cho nóng. Cô Vị bỏ nửa bát lá xương sông với lá hành. Mẹ tôi nhìn vào mắt tôi: - Mẹ sẽ ăn. Mẹ sẽ khỏi ngay thôi. Nhưng con hãy đến nhà cậu Chính. Tôi im lặng. Chắc lúc ấy tôi cau mày hoặc nhăn trán, nên mẹ tôi hối hả nói thêm: - Dù sao mẹ cũng chỉ có cậu là người ruột thịt duy nhất trên đời. Cậu ấy thiếu ăn, cậu ấy khổ quá. 2 đứa em của con nữa. Trông chúng giống như 2 cái giải khoai. Tôi nghĩ: - Sao mẹ không nói thẳng ra: 2 đứa cháu ruột của mẹ. 2 giọt máu mang dòng họ Đỗ... Cuối cùng, mẹ cũng giống cô Tâm. 2 người đàn bà ruột thịt của tôi. Nhưng tôi đã không nói điều tôi nghĩ. Cuộc sống lẻ loi đã dạy tôi khôn sớm hơn các đứa trẻ bình thường. Tôi ôn tồn nói với mẹ: - Được rồi, Mẹ ăn đi đã. Bưng bát cháo, tôi kề sát môi mẹ. Nhưng mẹ giữa tay tôi lại, và nhìn tôi, như người ta cầu khẩn 1 lời nguyền trước khi nhảy vào lửa: - Con thương mẹ nhé. Con hứa đi. Tôi gật đầu: - Vâng, con hứa. Mẹ tôi hớn hở. Mẹ ăn hết bát cháo, uống thuốc cảm rồi sau đó,bảo tôi đem cho mẹ chiếc làn. Rút chiếc túi lụa đen đựng tiền, mẹ lấy ra 1 xấp bạc, đếm và bảo tôi: - Con mua 2 cân giò, 2 cân chả quế, 2 cân thịt nạc đem cho cậu. Thịt nạc mợ ấy làm ruốc, còn giò chả cho cậu và các em ăn. Nói với cậu mợ rằng mẹ cháu gửi thức ăn tới cho 2 em Tuấn và Tú. Tôi cầm tiền, đáp”: - Vâng. Mẹ dặn: - Giò chả mua ở phố Hàng Bông. Còn thịt thăn lấy của cô Hòe. Nói cô bán cho mẹ cháu con lợn ngon nhất. Tôi đáp: - Vâng. Mẹ bảo: - Thế thôi. Con thay áo đi cho sớm sủa. À đừng có cói với cậu mợ là mẹ ốm. Mẹ dặn dò tôi điều cuối cùng, rồi yên tân trùm chăn nằm xuống. Tôi đã ra chợ, rồi đạp xe lên phố Hàng Bông, mua bán đủ thứ theo lời mẹ dặn. Xong xuôi, chưa tới 10 giờ, tôi rẽ vào nhà đứa bạn cùng lớp chơi. Đúng 11 giờ rưỡi, tôi đạp xe tới khu tập thể K. mang theo tấm thẻ học sinh. May sao, lần này người gác cửa lại là 1 bà già béo tốt, gương mặt phúc hậu. Bà đang ngồi thái dưa cải muối. Bà cho tôi vào ngay, không hỏi giấy tờ. Tôi phóng xe thẳng tới nhà cậu Chính. Cả 2 đứa con trai của cậu tôi đang chơi ngoài cửa. Chúng dùng xẻng moi đất ở 1 kẽ gạch vỡ lên. Chiếc xẻng nhựa bé như chiếc thìa xúc tương ớt, cái xô nhựa cũng nhỉnh hơn chiếc chén hạt mít uống trà. Thấy tôi, chúng nhớn nhác gọi: - Mẹ ơi, có khách. Mợ Thành đang lúi húi thu dọn gì đó trong nhà. Nghe con gọi, quay ra: - Khách nào? Giọng của 1 bà chủ muốn đuổi khách ra khỏi cửa. Tôi nhớ tới cặp mắt cầu khẩn của mẹ tôi. Tôi cúi chào: - Cháu chào mợ ạ! Mợ ta đưa mắt nhìn tôi, à lên 1 tiếng rồi nói: - Cậu Chính chưa về. Tôi đáp: - Mẹ cháu bảo cháu đem cho em Tuấn và... Tới đó, tôi thấy đôi mắt người đàn bà đảo 1 vòng lẹ như chớp, rồi hạ giọng, mợ ta nói: - Vào nhà, hãy vào nhà đã... Tôi gỡ chiếc làn tre nặng trĩu từ ghiđông xe đạp xuống, xách vào. Mợ ta vội đóng cửa, rồi hất hàm bảo tôi: - Cháu ngồi xuống ghế đi. Tôi vẫn đứng gần cửa, và nói: - Mẹ cháu sai cháu đem thức ăn cho em Tuấn và em Tú. Đây. Tôi mở lớp giấy bao phủ bên trên, lần lượt lấy ra 2 cân giò lụa nguyên cây, 2 cân chả quế bọc lá chối nướng, 2 cân thịt thăn nõn gói giấy cẩn thận. Tôi đặt tất cả lên mặt bàn. Đôi mắt người đàn bà như tối tăm đi. Mợ ta lắp bắp: - Không được... không được... Nói rồi, mắt đảo ra cửa, dường như sợ 1 cặp mắt nào đó rình mò. Tôi xách làn lên, nói: - Cháu chào mợ, cháu về. - Khoan, khoan đã. Mợ ta vồ lấy tay tôi, nói với 1 giọng sai lạc: - Không hiểu ra sao cả. Chờ tí đã... cậu về bây giờ đây. Tôi nhìn những nốt rỗ hoa trên mặt người đàn bà, bỗng thấy mệt mỏi. Trèo lên xe đạp về cũng chán. Tôi ngồi xuống ghế. 2 đứa trẻ lúc đó ló đầu vào: - Ra ngoài chơi... Tuấn, Tú... Mợ ta hét lên đột ngột, đến tôi giật bắn người. Trong đôi mắt tối tăm ấy, lộ ra vẻ hoảng sợ. Tôi không hiểu nguồn cơn. Tôi bám chặt lấy thành ghế, nhìn 2 đứa bé chạy vụt ra ngoài như 2 con chuột, gương mặt nhớn nhác. Người đàn bà khép cửa lại, rồi xếp những gói thực phẩm vào chiếc trạn gỗ, kê phía lối đi vào buồng trong. Dáng điệu hối hả như tên trộm cất giấu hàng chết. Có tiếng gọi từ bên ngoài: - Sao lại đóng cửa thế này? Giọng cậu Chính. Cậu tôi đẩy cửa vào. Thấy tôi, mặt cậu sa xuống: - Cậu đã bảo rồi. Cậu đã khỏe. Sao mẹ mày còn sai đến đây? Mợ Thành, vừa rửa tay sau nhà đi ra, đón lời: - Chị ấy sai cháu đến chơi. Tôi nói: - Mẹ cháu bảo 2 em gầy quá. Mẹ cháu gửi thức ăn cho em Tuấn, em Tú. Cậu tôi nhăn mặt lại. Trán cậu nổi u lên, giận dữ: - Tạng chúng nó gầy. Có phải cứ gầy là thiếu ăn đâu. Ngừng lại 1 lát, cậu nói thêm: - Dù có thiếu, cũng là tình hình chung. Không có gì đáng phàn nàn. Đấy nước còn khó khăn. Tôi nói: - Cháu không biết. Cháu chỉ làm theo lời mẹ cháu. Không chờ cậu trả lời, tôi xách làn đứng lên. Lúc ấy, mợ Thành bước ra, đứng giữa cậu Chính và tôi, giọng phân giải: - Đấy là cậu nói chung. Nhưng dù sao, mẹ cháu cũng tốt với các em, đúng không? Tôi không trả lời, bước khỏi cửa. Lúc tôi về nhà, mẹ tôi hỏi đón từ trong buồng: - Hằng đã về phải không con? Mắt mẹ hau háu nhìn tôi, háo hức, trông ngóng. Tôi đáp: - Con đưa cậu mợ ấy rồi. Mắt mẹ ánh lên mừng rỡ: - Cậu đi làm rồi chứ? - Vâng. - Em Tuấn, em Tú ra sao? - Bình thường. - Chúng nó có nhận ra con không? - Có. - Chúng nó có mừng không? - Mừng. Mẹ chép miệng: - Rõ đoảng vị, mẹ quên không bảo con mua cho 2 em ấy mấy cặp bánh dầy cho chúng nó ăn bánh dầy kẹp chả. Cậu mợ ấy lương bổng như thế, các em con chẳng mấy khi được miếng ngon. Tôi không trả lời, bụng đầy cơn tức. Chẳng phải vì ghen tuông với 2 đứa bé, nhưng tôi không thể yêu chúng được. Càng không thể yêu bố mẹ chúng. Tôi quay mặt vào tường, bĩu môi: - Thế mà còn dặn, con đừng nói với cậu mợ là mẹ ốm nhé. Chẳng ma nào nó thèm ỏ ê... May, mẹ tôi đã không nghe rõ những tiếng lầm bầm. Mẹ hỏi: - Cái gì thế Hằng? - Không có gì đâu mẹ ạ. Con mắng lũ kiến. Chúng nó bu đen cả lọ đường. Hai ngày sau, mẹ tôi gánh hàng ra chợ, mặc cô Vị khuyên can. Mẹ nói: - Cô đừng lo, tôi khỏe lắm. Gánh gáng hàng cứ nhẹ như lông ngỗng. Tôi hiểu ý nghĩ của mẹ: Giờ đây, mẹ có nhiệm vụ phải bảo trợ cho 2 đứa cháu. Mẹ có nguồn hạnh phúc mới. Sự hy sinh quyến rũ làm sao. Tối tối, tôi thấy mẹ ngồi đếm tiền, lẩm nhẩm tính toán say mê khác thường. Mẹ buôn thêm cả măng tây và cà chua. Cô Vị bảo: - Mẹ mày tham quá. Sức người có hạn, cứ quay như chong chóng cả ngày thế nào cũng ngã bệnh. Khỏe đến như voi cũng còn gục chứ chẳng phải người. Dịp ấy, chúng tôi được nghỉ học kỳ. Lũ bạn rủ tôi ra bờ sông chơi. Với chúng tôi, những cuộc đi như thế thật quyến rũ. Tôi mang sẵn bao diêm, tới nơi, chúng tôi gom góp củi khô, đốt lửa. Cả bọn xúm quanh, nhìn ngọn lửa liếm từng cành cây hay búi cỏ, tưởng tượng tới 1 hòn đảo hoang, 1 khe núi, đời sống của những bộ lạc man dại xưa. Gió thổi. Mùi các thân cây phơi nắng, thân ngô, thân cúc dại, dây bí ngô hoặc cỏ mật bốc lên, ngào ngạt. Hạnh “diếc”, cô tổ trưởng tổ học tập của tôi, cao lêu đêu như cái cọc dẫn đầu 1 tốp 3 đứa đi tới ru

File đính kèm:

  • docNhững Thiên đường mù9.doc